U-454 (tàu ngầm Đức)
![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-454 |
Đặt hàng | 20 tháng 10, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 285 |
Đặt lườn | 4 tháng 7, 1940 |
Hạ thủy | 30 tháng 4, 1941 |
Nhập biên chế | 24 tháng 7, 1941 |
Tình trạng | Bị máy bay Australia đánh chìm trong vịnh Biscay, 1 tháng 8, 1943[1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 45 537 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-454 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười chuyến tuần tra, đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 557 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.870 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 5.395 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-454 bị một thủy phi cơ Short Sunderland của Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm trong vịnh Biscay vào ngày 1 tháng 8, 1943.[1]
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-454 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 10, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke AG ở Kiel vào ngày 4 tháng 7, 1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 4, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 24 tháng 7, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Burkhard Hackländer.[2]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1941
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-454 được điều sang Chi hạm đội U-boat 7 từ ngày 1 tháng 11, 1941 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[2]
Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi di chuyển từ cảng Kiel, Đức dọc theo bờ biển Na Uy đến Kirkenes vào đầu tháng 12, 1941, U-454 khởi hành từ cảng ở phía cực Bắc Na Uy này vào ngày 25 tháng 12 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh để hoạt động trong biển Barents ngoài khơi bán đảo Kola, Liên Xô.[6] Tại đây lúc 06 giờ 32 phút ngày 17 tháng 1, 1942, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu đánh cá vũ trang Liên Xô RT-68 Enise (557 tấn) ở vị trí khoảng 78 nmi (144 km) về phía Bắc Kanin Nos, tại tọa độ 68°41′B 38°58′Đ / 68,683°B 38,967°Đ.[7]
Cùng ngày hôm đó, lúc 18 giờ 46 phút, chiếc U-boat đã tấn công Đoàn tàu PQ-8, gây hư hại cho chiếc tàu buôn Anh Harmatis 5.395 GRT[8] và đến 22 giờ 21 phút đã đánh chìm tàu khu trục Anh HMS Matabele (1.870 tấn) tại tọa độ 69°21′B 35°27′Đ / 69,35°B 35,45°Đ. Chỉ có hai người trong tổng số 238 thành viên thủy thủ đoàn của Matabele sống sót, phần lớn đã thiệt mạng do mìn sâu mang theo kích nổ dưới nước hay bị hạ thân nhiệt.[9] U-454 kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Kirkenes vào ngày 20 tháng 1, 1942.
1943
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ mười – Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-454 xuất phát từ cảng La Pallice vào ngày 26 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong Đại Tây Dương.[10] Trong vịnh Biscay vào ngày 1 tháng 8, nó bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm thả mìn sâu ở vị trí về phía Tây Bắc mũi Ortegal, Tây Ban Nha, tại tọa độ 45°36′B 10°23′T / 45,6°B 10,383°T. 32 thành viên thủy thủ đoàn của U-454 đã tử trận, và có 14 người sống sót được cứu vớt.[1][11] [2] Chiếc Sunderland cũng bị hỏa lực phòng không của chiếc tàu ngầm bắn rơi, khiến sáu thành viên đội bay tử trận, và sáu người sống sót được cứu vớt.[2]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-454 từng tham gia mười chín bầy sói:
- Ulan (25 tháng 12, 1941 – 18 tháng 1, 1942)
- Aufnahme (7 – 10 tháng 3, 1942)
- Umhang (10 – 15 tháng 3, 1942)
- Eiswolf (28 – 31 tháng 3, 1942)
- Robbenschlag (8 – 14 tháng 4, 1942)
- Blutrausch (15 – 19 tháng 4, 1942)
- Wolf (13 – 30 tháng 7, 1942)
- Pirat (30 tháng 7 – 3 tháng 8, 1942)
- Steinbrinck (3 – 11 tháng 8, 1942)
- Panther (6 – 20 tháng 10, 1942)
- Veilchen (20 tháng 10 – 7 tháng 11, 1942)
- Kreuzotter (9 – 18 tháng 11, 1942)
- Landsknecht (20 – 28 tháng 1, 1943)
- Pfeil (1 – 9 tháng 2, 1943)
- Ritter (16 – 23 tháng 2, 1943)
- Amsel (26 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
- Amsel 4 (3 – 6 tháng 5, 1943)
- Rhein (7 – 10 tháng 5, 1943)
- Elbe 2 (10 – 14 tháng 5, 1943)
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-454 đã đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 557 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.870 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 5.395 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[12] |
---|---|---|---|---|
17 tháng 1, 1942 | Harmatris | ![]() |
5.395 | Bị hư hại |
17 tháng 1, 1942 | HMS Matabele | ![]() |
1.870 | Bị đánh chìm |
17 tháng 1, 1942 | RT-68 Enisej | ![]() |
557 | Bị đánh chìm |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Kemp 1999, tr. 138.
- ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. "The Type VIIB U-boat U-454". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. "Type VIIC". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "War Patrols by German U-boat U-454". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-454 (first patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "RT-68 Enise – Soviet Steam trawler". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Harmatris – British Steam merchant". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "HMS Matabele (G 26) – British Destroyer". Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-454 (tenth patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- ^ Paterson (2007), tr. 146.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Ships hit by U-451". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). Quyển IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. Quyển 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1999). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. W & N. ISBN 978-1854095152.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Paterson, Lawrence (2007). U-Boats in the Mediterranean 1941-1944. Chatham Publishing. ISBN 978-1861762900.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC boat U-454". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.
- Hofmann, Markus. "U 454". Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2025.