U-450 (tàu ngầm Đức)
![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-450 |
Đặt hàng | 21 tháng 10, 1940[1] |
Xưởng đóng tàu | Schichau-Werke, Danzig[1] |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 1521 |
Đặt lườn | 22 tháng 7, 1941[1] |
Hạ thủy | 4 tháng 7, 1942[1] |
Nhập biên chế | 12 tháng 9, 1942[1] |
Tình trạng | Bị tàu chiến Đồng Minh đánh chìm trong Địa Trung Hải, 10 tháng 3, 1944[1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 49 679 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: | Không |
U-450 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-450 bị các tàu khu trục hộ tống Anh HMS Blankney, HMS Blencathra, HMS Brecon và HMS Exmoor cùng tàu khu trục Hoa Kỳ USS Madison đánh chìm trong Địa Trung Hải vào ngày 10 tháng 3, 1944.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-450 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 10, 1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu Schichau-Werke ở Danzig (nay là Gdańsk thuộc Ba Lan) vào ngày 22 tháng 7, 1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7, 1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 12 tháng 9, 1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Kurt Böhme.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1943
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-450 được điều sang Chi hạm đội U-boat 9 từ ngày 1 tháng 6, 1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]U-450 khởi hành từ cảng Kiel, Đức vào ngày 27 tháng 5 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GI-UK giữa quần đảo Faroe và Iceland để vòng qua quần đảo Anh.[5] Ở vị trí 155 nmi (287 km) về phía Đông Nam Iceland vào ngày 6 tháng 6, nó bị một máy bay ném bom B-17 Flying Fortress thuộc Liên đội 220 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến một thủy thủ tử trận và bảy người khác bị thương, và chiếc tàu ngầm bị hư hại đáng kể.[5][1] Dưới sự trợ giúp của các tàu khác, U-450 đi đến được cảng Brest bên bờ Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 22 tháng 6.[3]
Chuyến tuần tra thứ hai
[sửa | sửa mã nguồn]Xuất phát từ Brest vào ngày 17 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ hai, U-450 có nhiệm vụ vượt qua eo biển Gibraltar được phía Đồng Minh canh phòng nghiêm ngặt để tiến vào hoạt động trong Địa Trung Hải. Con tàu xâm nhập qua eo biển thành công vào ngày 29 tháng 10 và đến được cảng Toulon, Pháp vào ngày 8 tháng 11.[6] Chiếc tàu ngầm được điều động sang Chi hạm đội U-boat 29 từ ngày 1 tháng 12, 1943 để hoạt động trong khu vực Địa Trung Hải.[1]
1944
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ ba – Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-450 xuất phát từ càng Toulon vào ngày 14 tháng 2, 1944 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong vùng biển Tyrrhenus giữa đảo Sardegna và bán đảo Ý, với ý định tấn công tàu bè Đồng Minh tham gia cuộc đổ bộ lên Anzio.[7] Đến ngày 10 tháng 3, U-450 bị các tàu khu trục hộ tống Anh HMS Blankney, HMS Blencathra, HMS Brecon và HMS Exmoor cùng tàu khu trục Hoa Kỳ USS Madison thả mìn sâu đánh chìm ở vị trí về phía Nam Ostia, Roma, Ý, tại tọa độ 41°11′B 12°27′Đ / 41,183°B 12,45°Đ.[1] Toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn của U-450 đều sống sót và bị bắt làm tù binh chiến tranh.[1]
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Helgason, Guðmundur. "The Type VIIB U-boat U-450". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. "Type VIIC". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. "War Patrols by German U-boat U-450". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-450 (first patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-450 (second patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. "Patrol info for U-450 (third patrol)". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). Quyển IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. Quyển 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. "The Type VIIC boat U-450". German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.
- Hofmann, Markus. "U 450". Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2025.