Không quân Hoàng gia Úc
Royal Australian Air Force | |
---|---|
Tập tin:RAAF Badge.svg | |
Thành lập | 31 tháng 3 năm 1921 |
Quốc gia | Australia |
Phân loại | Không quân |
Chức năng | Tác chiến trên không |
Quy mô | 14,313 quân thường trực [1] 5,499 quân dự bị 309 máy bay |
Bộ phận của | Lực lượng Quốc phòng Úc |
Tổng hành dinh | Russell Offices |
Khẩu hiệu | tiếng Latinh: Per ardua ad astra "Vượt qua nghịch cảnh để hướng tới các vì sao" |
Hành khúc | Royal Air Force March Past |
Lễ kỷ niệm | Ngày thành lập không quân (31 tháng 3) |
Tham chiến |
|
Website | www |
Các tư lệnh | |
Tổng tư lệnh | Toàn quyền Úc David Hurley |
Tham mưu trưởng | Nguyên soái Mel Hupfeld |
Phó tham mưu trưởng | Đại tướng Stephen Meredith |
Tư lệnh không quân | Đại tướng Joe Iervasi |
Sĩ quan bảo đảm không quân | Thượng sĩ Fiona Grasby |
Huy hiệu | |
Logo | |
Phù hiệu trên thân máy bay | |
Cờ hiệu | |
Phi cơ sử dụng | |
Tác chiến điện tử | Boeing EA-18G Growler, Boeing 737 AEW&C |
Tiêm kích | McDonnell Douglas F/A-18 Hornet, Boeing F/A-18E/F Super Hornet, Lockheed Martin F-35 Lightning II |
Máy bay trực thăng | AgustaWestland AW139 |
Tuần tra | Lockheed AP-3C Orion, Boeing P-8 Poseidon |
Huấn luyện | Pilatus PC-21, BAE Systems Hawk, Beechcraft Super King Air |
Vận tải | Lockheed Martin C-130J Super Hercules, Boeing C-17 Globemaster III, Boeing 737, Dassault Falcon 7X, Airbus A330 MRTT, Alenia C-27J Spartan |
Lực lượng Không quân Hoàng gia Úc (Royal Australian Air Force - RAAF), được thành lập vào tháng 3 năm 1921, là chi nhánh tác chiến trên không của Lực lượng Phòng vệ Úc (ADF). Nó vận hành phần lớn các máy bay cánh cố định của ADF, mặc dù cả Quân đội Úc và Hải quân Hoàng gia Úc cũng vận hành máy bay với nhiều vai trò khác nhau.[1][2] Nó trực tiếp tiếp nối truyền thống của Quân đoàn bay Úc(AFC), được thành lập vào ngày 22 tháng 10 năm 1912.[3] RAAF cung cấp hỗ trợ trên nhiều hoạt động như chiếm ưu thế trên không, tấn công chính xác, tình báo, giám sát và trinh sát, cơ động trên không, giám sát không gian và hỗ trợ nhân đạo.
RAAF đã tham gia vào nhiều cuộc xung đột lớn của thế kỷ 20. Trong những năm đầu của Chiến tranh Thế giới thứ hai, một số phi đội máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, trinh sát và các phi đội khác của RAAF đã phục vụ tại Anh, và cùng Lực lượng không quân sa mạc ở Bắc Phi và Địa Trung Hải. Từ năm 1942, nhiều đơn vị RAAF đã được thành lập tại Úc và tham chiến ở Khu vực Tây Nam Thái Bình Dương. Hàng nghìn người Úc cũng phục vụ trong các lực lượng không quân Khối thịnh vượng chung khác ở châu Âu, kể cả trong cuộc tấn công bằng máy bay ném bom chống lại Đức.[4] Vào thời điểm chiến tranh kết thúc, có tổng cộng 216.900 nam giới và phụ nữ phục vụ trong RAAF, trong đó 10.562 người đã thiệt mạng khi chiến đấu.[5]
Sau đó, RAAF đã phục vụ trong Không vận Berlin, Chiến tranh Triều Tiên, Khẩn cấp Malayan, Đối đầu Indonesia-Malaysia và Chiến tranh Việt Nam. Gần đây hơn, RAAF đã tham gia vào các hoạt động ở Hoạt động Astute|Đông Timor, Chiến tranh Iraq, Chiến tranh ở Afghanistan và Sự can thiệp do Mỹ dẫn đầu ở Iraq (2014 – nay)|can thiệp quân sự chống lại Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIL). Gần đây, Không quân Úc cũng hỗ trợ khắc phục thiên tai ở các quốc gia khác trên thế giới như Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, hay cũng như hỗ trợ Liên Hợp Quốc tại các chiến dịch Gìn giữ Hòa bình của họ ở khắp nơi trên thế giới như vận chuyển quân đội và thiết bị quân sự các nước, trong đó có Việt Nam, đến châu Phi và các vùng cần hỗ trợ khác.
RAAF có 309 máy bay, trong đó có 140 máy bay chiến đấu các loại.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Current aircraft”. Royal Australian Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Aviation projects”. Australian Army. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Australian Military Aviation and World War One”. Royal Australian Air Force. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ Barnes 2000, p. 3.
- ^ Eather 1995, p. 18.