U-376 (tàu ngầm Đức)
![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-376 |
Đặt hàng | 16 tháng 10, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Howaldtswerke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 7 |
Đặt lườn | 3 tháng 4, 1940 |
Hạ thủy | 10 tháng 7, 1941 |
Nhập biên chế | 21 tháng 8, 1941 |
Tình trạng | Mất tích ở khu vực Tây Bắc Đại Tây Dương từ ngày 7 tháng 4, 1943 [1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 03 110 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
2 tàu buôn bị đánh chìm (10.146 GRT) |
U-376 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra và đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 10.146 GRT. U-376 mất tích trong chuyến tuần tra cuối cùng trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông vào ngày 7 tháng 4, 1943.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-376 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 10, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở Kiel vào ngày 3 tháng 4, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 7, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 21 tháng 8, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Friedrich-Karl Marks.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1942
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 6, U-376 sẵn sàng hoạt động từ ngày 1 tháng 3, 1942. Nó hoạt động từ các căn cứ tại Na Uy, và đến ngày 1 tháng 7 đã được điều động sang Chi hạm đội U-boat 11.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Friedrich-Karl Marks, U-376 xuất phát từ Kiel vào ngày 11 tháng 3, 1942 và đi đến Heligoland ở Bắc Hải vào ngày hôm sau.[3] Nó khởi hành vào ngày 15 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, hướng lên phía Bắc để hoạt động trong khu vực biển Barents.[5] Tại đây vào ngày 30 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Induna 5.086 GRT, vốn di chuyển trong thành phần Đoàn tàu PQ 13 và đang trên đường đi sang cảng Murmansk, Liên Xô. Trong tổng số 66 thành viên thủy thủ đoàn của Induna, 41 người lên được trên hai xuồng cứu sinh lênh đênh trên biển trong thời tiết lạnh đến −20 °C (−4 °F), và chỉ còn 30 người sống sót khi họ được một tàu quét mìn Liên Xô cứu vớt vào ngày 2 tháng 4, nhưng có thêm hai người khác qua đời sau đó.[6] Kết thúc chuyến tuần tra, chiếc U-boat đi đến cảng Kirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày 1 tháng 4. [3]
1943
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ tám – Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-376 xuất phát từ cảng La Pallice vào ngày 6 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng.[7] Nó được dự định sẽ băng qua Đại Tây Dương đến đảo Hoàng tử Edward, Canada, nhằm di tản các tù binh chiến tranh Đức đào thoát khỏi trại tù binh trong Chiến dịch Elster. Nhiệm vụ này cũng được giao cho tàu ngầm U-262, vốn đã rời cảng La Pallice trước đó vào ngày 27 tháng 3, nhưng phải quay trở lại căn cứ do trục trặc hệ thống thông khí, và lên đường trở lại vào ngày 7 tháng 4.[8]
Đến 05 giờ 17 phút ngày 10 tháng 4, Bộ Tổng tư lệnh Tàu ngầm Đức ra chỉ thị cho Đại úy Marks, hạm trưởng U-376: "chuyển hướng phù hợp theo mệnh lệnh đặc biệt..." ám chỉ việc xúc tiến Chiến dịch Elster. Tuy nhiên U-376 đã không hồi đáp hay báo cáo về căn cứ trong ba ngày liên tiếp, và được cho là đã mất tích vào ngày 15 tháng 4.[1] U-262 được lệnh thay thế cho U-376 thực hiện Chiến dịch Elster.[8] U-376 được cho là đã bị mất tích trong vịnh Biscay từ ngày 7 tháng 4, 1943, với tổn thất toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[1]
Trước đây U-376 được tin là đã bị một máy bay ném bom Vickers Wellington thuộc Liên đội 172 Không quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm vào ngày 10 tháng 4, 1943 trong vịnh Biscay về phía Tây Nantes, Pháp, tại tọa độ 46°48′B 09°00′T / 46,8°B 9°T. Vụ tấn công này thật ra nhắm vào U-465, gây ra thiệt hại đáng kể cho chiếc tàu ngầm.[1] Một nguồn khác ghi nhận các tàu tuần tra Hoa Kỳ USS Haste, USS Intensity và USS Alacrity đã tiến hành một cuộc tập trận ngoài khơi mũi North thuộc đảo Hoàng tử Edward, Canada vào sáng ngày 7 tháng 5. Trong quá trình tập trận, một tàu ngầm không rõ nhận dạng đã bị đánh chìm, nhưng không thể khẳng định đó là U-376.[9]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-376 từng tham gia chín bầy sói:
- Zieten (23 – 29 tháng 3, 1942)
- Eiswolf (29 – 31 tháng 3, 1942)
- Robbenschlag (7 – 14 tháng 4, 1942)
- Blutrausch (15 – 19 tháng 4, 1942)
- Strauchritter (29 tháng 4 – 5 tháng 5, 1942)
- Eisteufel (1 – 4 tháng 7, 1942)
- Eisteufel (6 – 12 tháng 7, 1942)
- Boreas (19 tháng 11 – 7 tháng 12, 1942)
- Neptun (18 tháng 2 – 2 tháng 3, 1943)
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-376 đã đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 10.146 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[10] |
---|---|---|---|---|
30 tháng 3, 1942 | Induna | ![]() |
5.086 | Bị đánh chìm |
10 tháng 7, 1942 | Hoosier | ![]() |
5.060 | Bị đánh chìm |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-376”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-376”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-376 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Induna - British Steam merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-376 (eighth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-262 (fifth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
- ^ Hadley (1990), tr. 170.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-376”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Hadley, Michael L. (1990). U-Boats Against Canada: German Submarines in Canadian Waters. McGill-Queen's Press – MQUP. ISBN 0-7735-0801-5.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-376”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.
- Hofmann, Markus. “U 376”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2025.