U-340 (tàu ngầm Đức)
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-340 |
Đặt hàng | 17 tháng 12, 1940 |
Xưởng đóng tàu | Nordseewerke, Emden |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 212 |
Đặt lườn | 1 tháng 10, 1941 |
Hạ thủy | 20 tháng 8, 1942 |
Nhập biên chế | 16 tháng 10, 1942 |
Tình trạng | Bị máy bay và tàu chiến Anh đánh chìm ngoài khơi Tangier, Maroc, 2 tháng 11, 1943 [1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 49 695 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: | Không |
U-340 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương để xâm nhập qua eo biển Gibraltar, U-340 bị máy bay và tàu chiến Anh gây hư hại nặng ngoài khơi Tangier, Maroc và phải tự đánh đắm vào ngày 2 tháng 11, 1943.[1]
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-340 được đặt hàng vào ngày 17 tháng 12, 1940,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Nordseewerke ở Emden vào ngày 1 tháng 10, 1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 8, 1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 16 tháng 10, 1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hans-Joachim Klaus.[2]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]U-340 khởi hành từ Kiel vào ngày 29 tháng 4, 1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để tiến ra hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland.[6] Chiếc tàu ngầm không đánh chìm được mục tiêu nào, nên kết thúc chuyến tuần tra và về đến cảng Bordeaux bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 31 tháng 5.[4]
Chuyến tuần tra thứ hai
[sửa | sửa mã nguồn]U-340 khởi hành từ cảng Bordeaux vào ngày 6 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ hia, và di chuyển xuống phía Nam để hoạt động dọc theo bờ biển Tây Phi cho đến tận ngoài khơi Liberia. Trong chặng quay trở về, ở vị trí ngoài khơi bờ biển Tây Ban Nha vào ngày 25 tháng 8, nó đã cứu vớt năm thành viên đội bay một máy bay ném bom Focke-Wulf Fw 200 Condor Không quân Đức Quốc xã bị bắn rơi vào ngày hôm trước. Ngay sau đó U-340 bị một máy bay đối phương không rõ nhận dạng tấn công, khiến nó bị hư hại nhẹ, một thủy thủ tử trận cùng năm người khác bị thương. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra tại cảng St. Nazaire vào ngày 2 tháng 9. [7]
Chuyến tuần tra thứ ba - Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]U-340 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày 17 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, và hướng xuống phía Nam để tìm cách xâm nhập qua eo biển Gibraltar được Hải quân Anh canh phòng nghiêm ngặt, nhằm hoạt động trong Địa Trung Hải. [8]
Tuy nhiên U-340 bị phát hiện ở vị trí ngoài khơi Tangier, Maroc, và bị tấn công bằng mìn sâu thả từ tàu sà lúp HMS Fleetwood và các tàu khu trục HMS Active và HMS Witherington của Hải quân Hoàng gia Anh, phối hợp với một máy bay ném bom B-24 Liberator thuộc Liên đội 149 Không quân Hoàng gia Anh.[2] Chiếc tàu ngầm bị hư hại nặng đến mức thủy thủ đoàn phải bỏ tàu và tự đánh đắm ở vị trí gần Punta Almina, Ceuta, bên bờ biển Bắc Phi của eo biển Gibraltar, tại tọa độ 35°49′B 05°14′T / 35,817°B 5,233°T.[2] Một thành viên thủy thủ đoàn của U-340 đã tử trận, nhưng 48 người khác đã sống sót.[2]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-340 từng tham gia ba bầy sói:
- Iller (12 - 15 tháng 5, 1943)
- Donau 1 (15 - 20 tháng 5, 1943)
- Không tên (11 - 29 tháng 7, 1943)
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Kemp (1997), tr. 155–156.
- ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-340”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-340”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-340 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-340 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-340 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bishop, Chris (2006). Kriegsmarine U-Boats, 1939-45. London: Amber Books. ISBN 978-1-904687-96-2.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-340”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
- Hofmann, Markus. “U 340”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.