U-312 (tàu ngầm Đức)
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-312 |
Đặt hàng | 5 tháng 6, 1941 |
Xưởng đóng tàu | Flender Werke, Lübeck |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 312 |
Đặt lườn | 10 tháng 4, 1942 |
Hạ thủy | 27 tháng 2, 1943 |
Nhập biên chế | 21 tháng 4, 1943 |
Tình trạng |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 13 550 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: | Không |
U-312 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. U-312 sống sót qua cuộc chiến tranh và đầu hàng lực lượng Đồng Minh trên đường đi sang cảng Narvik, Na Uy vào ngày 17 tháng 5, 1945. Sau đó nó được kéo đến Loch Eriboll, Scotland, rồi bị đánh đắm ngoài khơi Londonderry, Bắc Ireland trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight vào ngày 29 tháng 11, 1945.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-312 được đặt hàng vào ngày 5 tháng 6, 1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Flender Werke ở Lübeck vào ngày 10 tháng 4, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 2, 1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 21 tháng 4, 1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Kurt-Heinz Nicolay.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8, U-312 được điều sang Chi hạm đội U-boat 6 từ ngày 1 tháng 12, 1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
1944
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel sang cảng Bergen vào đầu tháng 1, 1944, U-312 khởi hành từ cảng Na Uy này vào ngày 23 tháng 1, 1944 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh.[3] Sau khi hoạt động trong biển Na Uy và vùng biển Bắc Cực về phía Tây Nam đảo Bear, nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến Hammerfest vào ngày 29 tháng 2.[5]
Số phận
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Đức Quốc xã chấp nhận đầu hàng, U-312 cùng 14 tàu U-boat Đức khác còn lại tại căn cứ Narvik được phía Đồng Minh chỉ thị đi đến Skjomen để tránh đụng độ với lực lượng Na Uy. Đến ngày 15 tháng 5, chúng cùng năm hạm tàu nổi khác của Đức lên đường đi sang Trondheim để đầu hàng. Trên đường đi họ bắt gặp Đội hộ tống 9 của Anh, và U-312 chính thức đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào ngày 17 tháng 5. Các tàu U-boat được áp giải sang Loch Eriboll, Scotland, đến nơi vào ngày 19 tháng 5.[1] Sau đó trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight, vào ngày 29 tháng 11, 1945, U-312 bị đánh đắm bằng hải pháo từ tàu khu trục Anh HMS Onslaught ngoài khơi Londonderry, tại tọa độ 55°35′B 7°54′T / 55,583°B 7,9°T.[1][6]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-312 từng tham gia mười bầy sói:
- Isegrim (25 - 27 tháng 1, 1944)
- Werwolf (8 - 28 tháng 2, 1944)
- Thor (17 tháng 3 - 5 tháng 4, 1944)
- Donner (5 - 10 tháng 4, 1944)
- Donner & Keil (30 tháng 4 - 3 tháng 5, 1944)
- Trutz (3 - 11 tháng 5, 1944)
- Grimm (9 tháng 9 - 1 Oct tháng 10, 1944)
- Panther (20 tháng 10 - 4 tháng 11, 1944)
- Hagen (13 - 21 tháng 3, 1945)
- Faust (19 tháng 4 - 1 tháng 5, 1945)
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-312”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-312”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-312 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
- ^ Hofmann, Markus. “U 312”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-312”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.
- Hofmann, Markus. “U 312”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2024.