Bước tới nội dung

U-371 (tàu ngầm Đức)

37°49′B 05°39′Đ / 37,817°B 5,65°Đ / 37.817; 5.650
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-371
Đặt hàng 23 tháng 9, 1939
Xưởng đóng tàu Kriegsmarinewerft, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 2
Đặt lườn 17 tháng 11, 1939
Hạ thủy 27 tháng 1, 1941
Nhập biên chế 15 tháng 3, 1941
Tình trạng Bị các tàu chiến Hoa Kỳ, Pháp và Anh đánh chìm trong Địa Trung Hải, 4 tháng 5, 1944[1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [3]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [3]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [3]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [3]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [3]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [3]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [3]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [3]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [3]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [3]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [3]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[2][4]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 40 472
Chỉ huy:
  • Đại úy Heinrich Driver
  • 15 tháng 3, 1941 – 5 tháng 4, 1942
  • Trung úy Karl-Otto Weber
  • 26 tháng 3 – 6 tháng 4, 1942
  • Đại úy Heinz-Joachim Neumann (tạm quyền)
  • 6 tháng 4 – 24 tháng 5, 1942
  • Đại úy Waldemar Mehl
  • 25 tháng 5, 1942 – 4 tháng 4, 1944
  • Trung úy Horst-Arno Fenski
  • 5 tháng 4 – 4 tháng 5, 1944
Chiến dịch:
  • 19 chuyến tuần tra:
  • 1: 5 tháng 6 – 1 tháng 7, 1941
  • 2: 23 tháng 7 – 19 tháng 8, 1941
  • 3': 16 tháng 9 – 24 tháng 10, 1941
  • 4: 4 tháng 12, 1941 – 10 tháng 1, 1942
  • 5: 4 – 25 tháng 3, 1942
  • 6: 21 tháng 4 – 9 tháng 5 & 1 – 7 tháng 7, 1942
  • 7: 5 – 18 tháng 9 & 12 – 16 tháng 10, 1942
  • 8: 1 – 4 tháng 12, 1942
  • 9: 7 tháng 12, 1942 – 10 tháng 1, 1943
  • 10: 14 tháng 2 – 3 tháng 3, 1943
  • 11: 7 tháng 4 – 11 tháng 5, 1943
  • 12: 3 – 12 tháng 7, 1943
  • 13: 22 tháng 7 – 11 tháng 8, 1943
  • 14: 21 tháng 8 – 3 tháng 9, 1943
  • 15: 7 – 28 tháng 10, 1943
  • 16: 15 – 23 tháng 11, 1943
  • 17: 22 tháng 1 – 13 tháng 2, 1944
  • 18: 4 – 25 tháng 3, 1944
  • 19: 23 tháng 4 – 4 tháng 5, 1944
Chiến thắng:
  • 8 tàu buôn bị đánh chìm
    (51.401 GRT)
  • 2 tàu chiến bị đánh chìm
    (2.286 tấn)
  • 1 tàu chiến phụ trợ bị đánh chìm
    (545 GRT)
  • 2 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (13.341 GRT)
  • 4 tàu buôn bị hư hại
    (28.072 GRT)
  • 2 tàu chiến bị hư hại
    (2.500 tấn)

U-371 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó hầu như chỉ hoạt động trong vùng biển Địa Trung Hải, thực hiện được mười chín chuyến tuần tra, đánh chìm tổng cộng mười một tàu đối phương với tổng tải trọng 51.946 GRT và 2.286 tấn, bao gồm tàu khu trục Hoa Kỳ USS Bristol, gây tổn thất toàn bộ cho hai tàu tải trọng 13.341 GRT, đồng thời gây hư hại cho sáu chiếc khác với tổng tải trọng 28.072 GRT và 2.500 tấn.[Ghi chú 1] U-371 bị một lực lượng các tàu khu trục Hoa Kỳ, PhápAnh đánh chìm vào ngày 4 tháng 5, 1944 trong Địa Trung Hải về phía Bắc Constantine, Algérie.[1] Ba thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận, và có 49 người sống sót.[2]

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-371 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng HowaldtswerkeKiel vào ngày 17 tháng 11, 1939.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 1, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 3, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Willy- Heinrich Driver.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

U-371 xuất phát từ Kiel vào ngày 5 tháng 6, 1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Greenland và Iceland.[6] Nó đã đánh chìm tàu buôn Anh Silverpalm 6.373 GRT vào ngày 12 tháng 6,[7] và sau đó là tàu buôn Na Uy Vigrid 4.765 GRT vào ngày 24 tháng 6.[8] Vigrid, vốn đang vận chuyển 6.000 tấn hàng hóa và trong hành trình từ New Orleans, Hoa Kỳ đi sang Belfast, Bắc IrelandManchester, Anh ngang qua Bermuda, đã bị đánh chìm tại tọa độ 54°30′B 41°30′T / 54,5°B 41,5°T / 54.500; -41.500; trong số 47 người có mặt trên tàu, 21 thủy thủ, một pháo thủ cùng bốn hành khách đã thiệt mạng.[9] Kết thúc chuyến tuần tra, U-371 đi đến cảng Brest bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 1 tháng 7.[4]

Chuyến tuần tra thứ mười chín

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới quyền chỉ huy của Trung úy Fenski, U-371 rời cảng Toulon lúc 19 giờ 00 ngày 23 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ mười chín, cĩng là chuyến cuối cùng, để hoạt động dọc theo bờ biển Algérie.[10] Nó tuần tra cách bờ biển 10–15 nmi (19–28 km).[11]

Vào ngày 28 tháng 4, U-371 được báo cáo về một đoàn tàu vận tải Đồng Minh lớn, nên lên đường để đánh chặn. Trong đêm 2 tháng 5, nó dự kiến sẽ bắt gặp đoàn tàu đối phương trong vài giờ sắp tới, nên trồi lên mặt nước để nạp điện thêm cho ắc-quy. Không may là nó trồi lên hầu như ngay giữa đoàn tàu vận tải đối phương, nên buộc phải lặn khẩn cấp xuống độ sâu 100 m (330 ft). Sau một giờ nó lại trở lên mặt nước và hướng đến đoàn tàu đối phương, nhưng bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Menges phát hiện không lâu sau đó. Khi Menges tiến đến gần ở khoảng cách 3.000 m (3.300 yd), U-371 phóng một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm từ ống phóng phía đuôi rồi lặn xuống. Quả ngư lôi đánh trúng Menges, phá hủy phần đuôi của con tàu, khiến 31 người tử trận và 25 người bị thương. Tuy nhiên chiếc tàu chiến Hoa Kỳ vẫn tiếp tục nổi được, và được kéo đến Bougie (nay là Béjaïa), Algéria; Menges cuối cùng được sửa chữa và quay trở lại phục vụ.[11]

Bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi đánh trúng Menges, bản thân U-371 bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS PrideUSS Joseph E. Campbell, các tàu frigate Sénégalaistàu khu trục L'Alcyon của Lực lượng Pháp quốc Tự do, cùng tàu khu trục hộ tống HMS Blankney của Hải quân Hoàng gia Anh săn đuổi ráo riết.[2] Khi U-371 tìm cách trồi lên mặt nước, mìn sâu thả từ tàu chiến đối phương đã làm hỏng đèn chiếu sáng, hư hại bánh lái ngang và làm vỡ thùng dằn. Chiếc U-boat lấy lại được thăng bằng khi chìm đến độ sâu 200–215 m (656–705 ft), nhưng bì rò rỉ nước đáng kể. Mìn sâu được đối phương tiếp tục thả từng đợt cách nhau 30 phút, càng lúc càng chính xác, khiến chiếc tàu ngầm chịu thêm những hư hại khác.[11]

Lúc khoảng 06 giờ 00 ngày 3 tháng 5, U-371 tìm cách tránh sự phát hiện của sonar bằng cách nằm sát đáy biển; điều này cũng giúp tiết kiệm điện ắc-quy, vốn đã tiêu hao khá nhiều. Chiếc U-boat nằm ở độ sâu 240 m (790 ft) cho đến hết ngày hôm đó, hy vọng tàu đối phương sẽ từ bỏ việc săn đuổi. Tuy nhiên cho đến đêm họ tiếp tục nghe thấy tiếng động cơ tàu đối phương, và khi chất lượng không khí trong tàu đã đến mức tồi tệ, hệ thống đèn khẩn cấp hỏng và U-371 bị rò rỉ 15 tấn nước, hạm trưởng chiếc U-boat quyết định hy vọng duy nhất của họ là trồi lên mặt nước để thoát đi dưới sự che chở của bóng đêm.[11]

Việc bơm nước ra khỏi các thùng dằn lại gây sự chú ý của các tàu Đồng Minh, nên họ lại tiếp tục thả mìn sâu, trong khi chiếc U-boat còn bị kẹt dưới đáy biển. Thủy thủ của U-371 phải chạy từ đầu này đến đầu nọ trong khi động cơ quay hết mức để có thể thoát khỏi bùn dưới đáy biển. Khi chiếc U-boat nổi lên được mặt nước, các ống phóng ngư lôi lôi được nạp lại và hải pháo chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến sinh tử nhằm thoát khỏi vòng vây đối phương.[11] Sau 15 phút, tàu đối phương áp sát từ phía sau, khai hỏa và ghi được nhiều phát trúng đích. Chiếc U-boat tìm các chống trả, nhưng nó hoàn toàn bị áp đảo và nhiều thủy thủ đã nhảy xuống biển. Như một nỗ lực kháng cự sau cùng, U-371 phóng một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm từ ống phóng phía đuôi, đánh trúng chiếc Sénégalais và gây ra một số hư hại.[11]

Đến khoảng 04 giờ 00 giờ ngày 4 tháng 5, chỉ còn lại Trung úy Fenski hạm trưởng, sĩ quan phòng máy và một hạ sĩ quan trên tàu. Hai người này ở lại khoang bên dưới để mở van đánh đắm tàu tại tọa độ 37°49′B 05°39′Đ / 37,817°B 5,65°Đ / 37.817; 5.650. U-371 chìm xuống biển nhanh chóng đến mức họ không thể thoát ra kịp, nên đã chìm theo con tàu.[11]

"Bầy sói" tham gia

[sửa | sửa mã nguồn]

U-371 từng tham gia hai bầy sói:

  • Kurfürst (17 – 20 tháng 6, 1941)
  • Goeben (16 – 24 tháng 9, 1941)

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-371 đã đánh chìm tổng cộng mười một tàu đối phương với tổng tải trọng 51.946 GRT và 2.286 tấn, gây tổn thất toàn bộ cho hai tàu tải trọng 13.341 GRT, đồng thời gây hư hại cho sáu chiếc khác với tổng tải trọng 28.072 GRT và 2.500 tấn.

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng Số phận[12]
12 tháng 6, 1941 Silverpalm  United Kingdom 6.373 Bị đánh chìm
24 tháng 6, 1941 Vigrid  Norway 4.765 Bị đánh chìm
30 tháng 7, 1943 Shahristan  United Kingdom 6.935 Bị đánh chìm
30 tháng 7, 1943 Sitoebondo  Netherlands 7.049 Bị đánh chìm
7 tháng 1, 1943 HMT Jura  Hải quân Hoàng gia Anh 545 Bị đánh chìm
7 tháng 1, 1943 Ville de Strasbourg  United Kingdom 7.159 Bị hư hại
23 tháng 2, 1943 Fintra  United Kingdom 2.089 Bị đánh chìm
28 tháng 2, 1943 Daniel Carroll  United States 7.176 Bị hư hại
27 tháng 4, 1943 Merope  Netherlands 1.162 Bị đánh chìm
10 tháng 7, 1943 Gulfprince  United States 6.561 Bị hư hại
10 tháng 7, 1943 Matthew Maury  United States 7.176 Bị hư hại
7 tháng 8, 1943 Contractor  United Kingdom 6.004 Bị đánh chìm
11 tháng 10, 1943 HMS Hythe  Hải quân Hoàng gia Anh 656 Bị đánh chìm
13 tháng 10, 1943 USS Bristol  Hải quân Hoa Kỳ 1.630 Bị đánh chìm
15 tháng 10, 1943 James Russell Lowel  United States 7.176 Tổn thất toàn bộ
17 tháng 3, 1944 Dempo  Netherlands 17.024 Bị đánh chìm
17 tháng 3, 1944 Maiden Creek  United States 6.165 Tổn thất toàn bộ
3 tháng 5, 1944 USS Menges  Hải quân Hoa Kỳ 1.200 Bị hư hại
4 tháng 5, 1944 FFL Sénégalais  Pháp Tự do 1.300 Bị hư hại

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Kemp (1997), tr. 187.
  2. ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2024.
  4. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  5. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-371 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Silverpalm - British Motor merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Vigrid - Norwegian Motor merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  9. ^ “1923 MS TITANIA (LTK001192302)”. skipshistorie.net (bằng tiếng Hà Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2019.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-371 (ninteenth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  11. ^ a b c d e f g “U-boat Archive: Report on the Interrogation of Survivors from U-371. uboatarchive.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
  • Hofmann, Markus. “U 371”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.