U-371 (tàu ngầm Đức)
![]() Tàu ngầm U-boat Type VIIC
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | U-371 |
Đặt hàng | 23 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Kriegsmarinewerft, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 2 |
Đặt lườn | 17 tháng 11, 1939 |
Hạ thủy | 27 tháng 1, 1941 |
Nhập biên chế | 15 tháng 3, 1941 |
Tình trạng | Bị các tàu chiến Hoa Kỳ, Pháp và Anh đánh chìm trong Địa Trung Hải, 4 tháng 5, 1944[1][2] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [3] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [3] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[2][4] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 40 472 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
|
U-371 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó hầu như chỉ hoạt động trong vùng biển Địa Trung Hải, thực hiện được mười chín chuyến tuần tra, đánh chìm tổng cộng mười một tàu đối phương với tổng tải trọng 51.946 GRT và 2.286 tấn, bao gồm tàu khu trục Hoa Kỳ USS Bristol, gây tổn thất toàn bộ cho hai tàu tải trọng 13.341 GRT, đồng thời gây hư hại cho sáu chiếc khác với tổng tải trọng 28.072 GRT và 2.500 tấn.[Ghi chú 1] U-371 bị một lực lượng các tàu khu trục Hoa Kỳ, Pháp và Anh đánh chìm vào ngày 4 tháng 5, 1944 trong Địa Trung Hải về phía Bắc Constantine, Algérie.[1] Ba thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận, và có 49 người sống sót.[2]
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-371 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Howaldtswerke ở Kiel vào ngày 17 tháng 11, 1939.[2] Nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 1, 1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 15 tháng 3, 1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Willy- Heinrich Driver.[2]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1941
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]U-371 xuất phát từ Kiel vào ngày 5 tháng 6, 1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng qua khe GIUK giữa quần đảo Faroe và Iceland để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Nam Greenland và Iceland.[6] Nó đã đánh chìm tàu buôn Anh Silverpalm 6.373 GRT vào ngày 12 tháng 6,[7] và sau đó là tàu buôn Na Uy Vigrid 4.765 GRT vào ngày 24 tháng 6.[8] Vigrid, vốn đang vận chuyển 6.000 tấn hàng hóa và trong hành trình từ New Orleans, Hoa Kỳ đi sang Belfast, Bắc Ireland và Manchester, Anh ngang qua Bermuda, đã bị đánh chìm tại tọa độ 54°30′B 41°30′T / 54,5°B 41,5°T; trong số 47 người có mặt trên tàu, 21 thủy thủ, một pháo thủ cùng bốn hành khách đã thiệt mạng.[9] Kết thúc chuyến tuần tra, U-371 đi đến cảng Brest bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 1 tháng 7.[4]
1944
[sửa | sửa mã nguồn]Chuyến tuần tra thứ mười chín
[sửa | sửa mã nguồn]Dưới quyền chỉ huy của Trung úy Fenski, U-371 rời cảng Toulon lúc 19 giờ 00 ngày 23 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ mười chín, cĩng là chuyến cuối cùng, để hoạt động dọc theo bờ biển Algérie.[10] Nó tuần tra cách bờ biển 10–15 nmi (19–28 km).[11]
Vào ngày 28 tháng 4, U-371 được báo cáo về một đoàn tàu vận tải Đồng Minh lớn, nên lên đường để đánh chặn. Trong đêm 2 tháng 5, nó dự kiến sẽ bắt gặp đoàn tàu đối phương trong vài giờ sắp tới, nên trồi lên mặt nước để nạp điện thêm cho ắc-quy. Không may là nó trồi lên hầu như ngay giữa đoàn tàu vận tải đối phương, nên buộc phải lặn khẩn cấp xuống độ sâu 100 m (330 ft). Sau một giờ nó lại trở lên mặt nước và hướng đến đoàn tàu đối phương, nhưng bị tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Menges phát hiện không lâu sau đó. Khi Menges tiến đến gần ở khoảng cách 3.000 m (3.300 yd), U-371 phóng một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm từ ống phóng phía đuôi rồi lặn xuống. Quả ngư lôi đánh trúng Menges, phá hủy phần đuôi của con tàu, khiến 31 người tử trận và 25 người bị thương. Tuy nhiên chiếc tàu chiến Hoa Kỳ vẫn tiếp tục nổi được, và được kéo đến Bougie (nay là Béjaïa), Algéria; Menges cuối cùng được sửa chữa và quay trở lại phục vụ.[11]
Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi đánh trúng Menges, bản thân U-371 bị các tàu hộ tống khu trục Hoa Kỳ USS Pride và USS Joseph E. Campbell, các tàu frigate Sénégalais và tàu khu trục L'Alcyon của Lực lượng Pháp quốc Tự do, cùng tàu khu trục hộ tống HMS Blankney của Hải quân Hoàng gia Anh săn đuổi ráo riết.[2] Khi U-371 tìm cách trồi lên mặt nước, mìn sâu thả từ tàu chiến đối phương đã làm hỏng đèn chiếu sáng, hư hại bánh lái ngang và làm vỡ thùng dằn. Chiếc U-boat lấy lại được thăng bằng khi chìm đến độ sâu 200–215 m (656–705 ft), nhưng bì rò rỉ nước đáng kể. Mìn sâu được đối phương tiếp tục thả từng đợt cách nhau 30 phút, càng lúc càng chính xác, khiến chiếc tàu ngầm chịu thêm những hư hại khác.[11]
Lúc khoảng 06 giờ 00 ngày 3 tháng 5, U-371 tìm cách tránh sự phát hiện của sonar bằng cách nằm sát đáy biển; điều này cũng giúp tiết kiệm điện ắc-quy, vốn đã tiêu hao khá nhiều. Chiếc U-boat nằm ở độ sâu 240 m (790 ft) cho đến hết ngày hôm đó, hy vọng tàu đối phương sẽ từ bỏ việc săn đuổi. Tuy nhiên cho đến đêm họ tiếp tục nghe thấy tiếng động cơ tàu đối phương, và khi chất lượng không khí trong tàu đã đến mức tồi tệ, hệ thống đèn khẩn cấp hỏng và U-371 bị rò rỉ 15 tấn nước, hạm trưởng chiếc U-boat quyết định hy vọng duy nhất của họ là trồi lên mặt nước để thoát đi dưới sự che chở của bóng đêm.[11]
Việc bơm nước ra khỏi các thùng dằn lại gây sự chú ý của các tàu Đồng Minh, nên họ lại tiếp tục thả mìn sâu, trong khi chiếc U-boat còn bị kẹt dưới đáy biển. Thủy thủ của U-371 phải chạy từ đầu này đến đầu nọ trong khi động cơ quay hết mức để có thể thoát khỏi bùn dưới đáy biển. Khi chiếc U-boat nổi lên được mặt nước, các ống phóng ngư lôi lôi được nạp lại và hải pháo chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến sinh tử nhằm thoát khỏi vòng vây đối phương.[11] Sau 15 phút, tàu đối phương áp sát từ phía sau, khai hỏa và ghi được nhiều phát trúng đích. Chiếc U-boat tìm các chống trả, nhưng nó hoàn toàn bị áp đảo và nhiều thủy thủ đã nhảy xuống biển. Như một nỗ lực kháng cự sau cùng, U-371 phóng một quả ngư lôi G7es (T5) dò âm từ ống phóng phía đuôi, đánh trúng chiếc Sénégalais và gây ra một số hư hại.[11]
Đến khoảng 04 giờ 00 giờ ngày 4 tháng 5, chỉ còn lại Trung úy Fenski hạm trưởng, sĩ quan phòng máy và một hạ sĩ quan trên tàu. Hai người này ở lại khoang bên dưới để mở van đánh đắm tàu tại tọa độ 37°49′B 05°39′Đ / 37,817°B 5,65°Đ. U-371 chìm xuống biển nhanh chóng đến mức họ không thể thoát ra kịp, nên đã chìm theo con tàu.[11]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-371 từng tham gia hai bầy sói:
- Kurfürst (17 – 20 tháng 6, 1941)
- Goeben (16 – 24 tháng 9, 1941)
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-371 đã đánh chìm tổng cộng mười một tàu đối phương với tổng tải trọng 51.946 GRT và 2.286 tấn, gây tổn thất toàn bộ cho hai tàu tải trọng 13.341 GRT, đồng thời gây hư hại cho sáu chiếc khác với tổng tải trọng 28.072 GRT và 2.500 tấn.
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng | Số phận[12] |
---|---|---|---|---|
12 tháng 6, 1941 | Silverpalm | ![]() |
6.373 | Bị đánh chìm |
24 tháng 6, 1941 | Vigrid | ![]() |
4.765 | Bị đánh chìm |
30 tháng 7, 1943 | Shahristan | ![]() |
6.935 | Bị đánh chìm |
30 tháng 7, 1943 | Sitoebondo | ![]() |
7.049 | Bị đánh chìm |
7 tháng 1, 1943 | HMT Jura | ![]() |
545 | Bị đánh chìm |
7 tháng 1, 1943 | Ville de Strasbourg | ![]() |
7.159 | Bị hư hại |
23 tháng 2, 1943 | Fintra | ![]() |
2.089 | Bị đánh chìm |
28 tháng 2, 1943 | Daniel Carroll | ![]() |
7.176 | Bị hư hại |
27 tháng 4, 1943 | Merope | ![]() |
1.162 | Bị đánh chìm |
10 tháng 7, 1943 | Gulfprince | ![]() |
6.561 | Bị hư hại |
10 tháng 7, 1943 | Matthew Maury | ![]() |
7.176 | Bị hư hại |
7 tháng 8, 1943 | Contractor | ![]() |
6.004 | Bị đánh chìm |
11 tháng 10, 1943 | HMS Hythe | ![]() |
656 | Bị đánh chìm |
13 tháng 10, 1943 | USS Bristol | ![]() |
1.630 | Bị đánh chìm |
15 tháng 10, 1943 | James Russell Lowel | ![]() |
7.176 | Tổn thất toàn bộ |
17 tháng 3, 1944 | Dempo | ![]() |
17.024 | Bị đánh chìm |
17 tháng 3, 1944 | Maiden Creek | ![]() |
6.165 | Tổn thất toàn bộ |
3 tháng 5, 1944 | USS Menges | ![]() |
1.200 | Bị hư hại |
4 tháng 5, 1944 | FFL Sénégalais | ![]() |
1.300 | Bị hư hại |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Kemp (1997), tr. 187.
- ^ a b c d e f g h i Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2024.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-371 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Silverpalm - British Motor merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Vigrid - Norwegian Motor merchant”. Ships hit by U-boats – uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ “1923 MS TITANIA (LTK001192302)”. skipshistorie.net (bằng tiếng Hà Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2019.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-371 (ninteenth patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- ^ a b c d e f g “U-boat Archive: Report on the Interrogation of Survivors from U-371”. uboatarchive.net. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File: Detailed Service Histories of the Submarines Operated by the Kriegsmarine 1935-1945. Leicester: Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-371”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.
- Hofmann, Markus. “U 371”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2025.