U-255 (tàu ngầm Đức)
Tàu ngầm U-255 tại Narvik, sau chuyến tuần tra tấn công Đoàn tàu PQ 17, tháng 7 năm 1942.
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-255 |
Đặt hàng | 23 tháng 9, 1939 |
Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft, Bremen |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 20 |
Đặt lườn | 21 tháng 12, 1940 [1] |
Hạ thủy | 8 tháng 10, 1941 [1] |
Nhập biên chế | 29 tháng 11, 1941 [1] |
Xuất biên chế | 1 tháng 9, 1944 [1] |
Tái biên chế | 2 tháng 3, 1945[1] |
Tình trạng |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm Type VIIC |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | |
Sườn ngang | |
Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in) [2] |
Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in) [2] |
Công suất lắp đặt | |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm |
|
Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
Vũ khí |
|
Thành tích phục vụ[1][3] | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 47 763 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
U-255 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, U-255 là một trong số tàu U-boat hoạt động thành công nhất tại vùng biển Bắc Cực,[4] khi đã thực hiện được tổng cộng mười lăm chuyến tuần tra, đánh chìm mười tàu buôn với tổng tải trọng 47.640 GRT cùng chiếc tàu hộ tống khu trục USS Leopold (1.200 tấn), đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn khác tải trọng 7.191 GRT.[5] U-255 sống sót qua cuộc chiến tranh và đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Loch Eriboll Scotland ngày 17 tháng 5, 1945, và bị đánh chìm trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight vào ngày 13 tháng 12, 1945.[1]
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[6] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[6]
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[6]
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[6]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]U-255 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bremer-Vulkan-Vegesacker Werft ở Bremen vào ngày 21 tháng 12, 1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 8 tháng 10, 1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 29 tháng 11, 1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Reinhart Reche.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]1942
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 8 đặt căn cứ tại Königsberg (nay là Kaliningrad thuộc Liên bang Nga) trong biển Baltic, U-255 được điều sang Chi hạm đội U-boat 11 từ ngày 1 tháng 7, 1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến Narvik, Na Uy vào giữa tháng 6, U-255 khởi hành từ cảng này vào ngày 23 tháng 6 cho chuyến tuần tra đầu tiên chiến tranh trong biển Na Uy và biển Barents.[7] Vào ngày 6 tháng 7, nó phóng bốn quả ngư lôi tấn công tàu Liberty Hoa Kỳ John Witherspoon 7.191 GRT, vốn đã phân tán khỏi Đoàn tàu PQ 17 hai ngày trước đó. Sau khi John Witherspoon vỡ làm đôi và đắm ở vị trí khoảng 20 mi (32 km) ngoài khơi quần đảo Novaya Zemlya, tại tọa độ 72°05′B 48°30′Đ / 72,083°B 48,5°Đ, chiếc tàu ngầm đã trồi lên mặt nước thẩm vấn những thủy thủ sống sót, cung cấp nước và thực phẩm và chỉ đường cho họ trước khi bỏ đi.[8]
Sang ngày hôm sau 7 tháng 7, U-255 tiếp tục tấn công một chiếc khác cũng bị phân tán khỏi Đoàn tàu PQ 17, Alcoa Ranger 5.116 GRT. Chiếc tàu buôn Hoa Kỳ bị đánh chìm bởi một quả ngư lôi và 60 quả đạn pháo tại tọa độ 71°28′B 49°35′Đ / 71,467°B 49,583°Đ.[9] Đến sáng sớm ngày 8 tháng 7, U-255 lại bắt gặp một tàu buôn Hoa Kỳ cùng khác bị phân tán khỏi Đoàn tàu PQ 17, Olopana 5.116 GRT. Một quả ngư lôi cùng 20 phát đạn pháo đã đánh chìm mục tiêu trong vòng 20 phút tại tọa độ 72°10′B 51°00′Đ / 72,167°B 51°Đ.[10]
Đến ngày 13 tháng 7, U-255 phát hiện chiếc tàu buôn Hà Lan Paulus Potter 7.168 GRT đã bị thủy thủ đoàn bỏ lại và đang trôi nổi. Paulus Potter, bị hư hại sau khi bị máy bay ném bom Junkers Ju 88 tấn công ở vị trí về phía Đông Bắc đảo Gấu, Na Uy vào ngày 5 tháng 7, sau khi Đoàn tàu PQ 17 được lệnh phân tán. Một sĩ quan và hai thủy thủ của U-255 đã đổ bộ sang Paulus Potter, tìm thấy những vật dụng hữu ích cùng tài liệu mật trước khi kết liễu mục tiêu bằng một quả ngư lôi tại tọa độ 75°57′B 40°10′Đ / 75,95°B 40,167°Đ.[11] U-255 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Narvik vào ngày 15 tháng 7.[3]
1945
[sửa | sửa mã nguồn]Bị hư hại nặng trong một đợt không kích của máy bay ném bom Đồng Minh xuống cảng St. Nazaire vào tháng 8, 1944, U-255 được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 9, 1944 để sửa chữa.[4][1] Sau khi hoàn tất, con tàu được điều trở lại Chi hạm đội U-boat 13 vào ngày 1 tháng 3, 1945 và tái biên chế vào ngày hôm sau 2 tháng 3, dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng, Trung úy Hải quân Helmuth Heinrich.[4][1]
Chuyến tuần tra thứ mười một đến mười lăm
[sửa | sửa mã nguồn]U-255 chỉ thực hiện thêm bốn chuyến tuần tra ngắn từ các căn cứ St. Nazaire và La Pallice, La Rochelle trong tháng 4 và đầu tháng 5, chủ yếu làm nhiệm vụ rải thủy lôi.[4][3] Chiếc tàu ngầm thực hiện chuyến đi cuối cùng trong chiến tranh từ St. Nazaire vào ngày 8 tháng 5 để đi sang Loch Eriboll, Scotland, nơi nó chính thức đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào ngày 19 tháng 5.[4][3]
Số phận
[sửa | sửa mã nguồn]Trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight, U-255 được tàu frigate HMS Cubitt kéo ra khơi về phía Tây Nam Ireland, nơi nó bị đánh chìm vào ngày 13 tháng 12 bởi hỏa lực rocket từ máy bay tiêm kích Bristol Beaufighter thuộc Liên đội 254 Không quân Hoàng gia Anh tại tọa độ 51°16′B 13°38′T / 51,267°B 13,633°T.[1][12]
"Bầy sói" tham gia
[sửa | sửa mã nguồn]U-255 từng tham gia sáu bầy sói:
- Eisteufel (1 – 12 tháng 7, 1942)
- Nebelkönig (7 – 9 tháng 8, 1942)
- Nordwind (24 tháng 1 - 4 tháng 2, 1943)
- Taifun (2 – 4 tháng 4, 1943)
- Eisbär (4 – 15 tháng 4, 1943)
- Preussen (9 – 22 tháng 3, 1944)
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-255 đã đánh chìm được mười tàu buôn tổng tải trọng 47.640 GRT và một tàu chiến tải trọng 1.200 tấn, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn khác tải trọng 7.191 GRT:
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[5] |
---|---|---|---|---|
6 tháng 7, 1942 | John Witherspoon | Hoa Kỳ | 7.191 | Bị đánh chìm |
7 tháng 7, 1942 | Alcoa Ranger | Hoa Kỳ | 5.116 | Bị đánh chìm |
8 tháng 7, 1942 | Olopana | Hoa Kỳ | 6.069 | Bị đánh chìm |
13 tháng 7, 1942 | Paulus Potter | Hà Lan | 7.168 | Bị đánh chìm |
20 tháng 9, 1942 | Silver Sword | Hoa Kỳ | 4.937 | Bị đánh chìm |
26 tháng 1, 1943 | Krasnyj Partizan | Liên Xô | 2.418 | Bị đánh chìm |
29 tháng 1, 1943 | Ufa | Liên Xô | 1.892 | Bị đánh chìm |
3 tháng 2, 1943 | Greylock | Hoa Kỳ | 7.460 | Bị đánh chìm |
5 tháng 3, 1943 | Executive | Hoa Kỳ | 4.978 | Bị đánh chìm |
10 tháng 3, 1943 | Richard Bland | Hoa Kỳ | 7.191 | Tổn thất toàn bộ |
27 tháng 7, 1943 | Akademik Shokalskij | Liên Xô | 411 | Bị đánh chìm |
9 tháng 3, 1944 | USS Leopold (DE-319) | Hải quân Hoa Kỳ | 1.200 | Bị đánh chìm |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-255”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-255”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d e Bishop (2006).
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-255”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-255 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “John Witherspoon - American Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Alcoa Ranger - American Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Olopana - American Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ Helgason, Guðmundur. “Paulus Potter - Dutch Steam merchant”. Ships hit by U-boats - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- ^ Hofmann, Markus. “U 255”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bishop, Chris (2006). Kriegsmarine U-Boats, 1939-45. London: Amber Books. ISBN 978-1-904687-96-2.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
- Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.
- Wynn, Kenneth (1998). U-boat Operations of the Second World War: Career histories, U1-U510. Naval Institute Press. ISBN 978-1-55750-860-7. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2016.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-255”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- Hofmann, Markus. “U 255”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
- Loss of the USS Leopold, 9 tháng 3, 1944