Lê Minh (nhà văn)
Lê Minh | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Nguyễn Thị Tài Hồng |
Ngày sinh | 29 tháng 10, 1928 |
Nơi sinh | Văn Giang, Hưng Yên |
Mất | |
Ngày mất | 11 tháng 6, 2021 | (92 tuổi)
Nơi mất | Hà Nội |
Nơi cư trú | Hà Nội |
Giới tính | nữ |
Quốc tịch | ![]() |
Nghề nghiệp | nhà văn |
Gia đình | |
Cha | Nguyễn Công Hoan |
Lĩnh vực | văn học |
Sự nghiệp văn học | |
Thể loại | truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, nghiên cứu |
Tác phẩm |
|
Giải thưởng | Danh sách |
Giải thưởng | |
Giải thưởng Nhà nước 2017 Văn học Nghệ thuật | |
Lê Minh (tên khai sinh Nguyễn Thị Tài Hồng; 1928–2021) là nữ nhà văn Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2017.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Lê Minh (tên khai sinh Nguyễn Thị Tài Hồng) sinh ngày 29 tháng 10 năm 1928 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Lê Minh là con gái của nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh Nguyễn Công Hoan.[1]
Lê Minh tham gia hoạt động cách mạng bí mật tại Thái Bình (1942). Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, bà hoạt động vận động công nhân ở Hà Nội, làm Phó ban Công vận tỉnh Nam Định. Năm 1946, bà tham gia chiến đấu tại khu ga Hàng Cỏ, phụ trách tờ báo hàng ngày của Quận VI (Mê Linh Kháng Chiến). Bà tham gia công tác tại Thường vụ huyện uỷ Thanh Trì, Đảng đoàn Sở Văn hoá Thông tin Liên khu I sau là khu Việt Bắc, Ủy viên Ban Phụ vận Trung ương Đảng.[2]
Sau 1954, bà hoạt động ở lĩnh vực văn học: biên tập văn xuôi các báo Văn học, Văn, Văn nghệ, Tạp chí Tác Phẩm Mới, Phó Chủ tịch Hội đồng Giáo dục Trường Viết văn Nguyễn Du, Ủy viên Hội đồng Văn học công nhân, Trưởng Ban Văn hoá – Văn nghệ Báo Nhân Dân, Giám đốc Quỹ Văn hoá Việt Nam của Bộ Văn hoá.[2]
Bà là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1960.
Bà mất tại Hà Nội ngày 11 tháng 06 năm 2021.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Sự nghiệp sáng tác của Lê Minh khá đa dạng, với nhiều tập truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, tạp văn, nghiên cứu văn học.[3]
Lê Minh vào nghề viết với tập truyện “Cu Dũng” in năm 1959 và trở thành một gương mặt nữ tiêu biểu nhất của văn học cách mạng. Bà đặc biệt thành công với thể loại ký sự nhân vật, mà hai cuốn sách tiêu biểu nhất là “Người chị - Nguyễn Thị Minh Khai” và “Người thợ máy Tôn Đức Thắng”.[1]
Lê Minh là một trong những tác giả nữ viết cho thiếu nhi từ rất sớm. Đó là “Ô cửa sổ”, “Con sóng lan xa”, “Lẵng hạt ngọc”, “Con mèo rét”, “Hạt chò chỉ”… Trong đó “Con sóng lan xa” là một trong những truyện ngắn đặc sắc, sau này được tuyển chọn vào “Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam cho thiếu nhi” (NXB Trẻ – 2009). Tác phẩm “Khúc hát vườn trầu” viết về người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai được xem là đóng góp đáng kể nhất cho mảng sách thiếu nhi của bà.[4]
Bà đã giành được nhiều giải thưởng văn học: Giải nhất Cuộc thi ký của Hội Nhà văn Việt Nam 1962 với tác phẩm Kỷ niệm về Khu Đông; Giải nhất Cuộc thi Truyện ngắn của Hội Nhà văn Việt Nam 1969 với truyện Nắng; Giải A Giải thưởng 5 năm Văn học đề tài công nhân (1980 – 1984) với tiểu thuyết Hòn đảo một mình; Giải A 5 năm Văn học đề tài công nhân (1991 – 1995) với tiểu thuyết Hồi.[2]
Năm 2017, bà được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.[5]
Tác phẩm chính
[sửa | sửa mã nguồn]Truyện ngắn
[sửa | sửa mã nguồn]- Cu Dũng (1959);
- Anh công dân mới (1962);
- Lớp học (1964);
- Ngày mai sắp đến (1969);
- Con mèo rét (1974);
- Ô cửa sổ (1974);
- Má (1976);
- Ngôi sao đỏ (1976);
- Đốm hoa tím (1980);
- Lẵng hạt ngọc (1984);
- Cái tát (1990);
- Săn đuổi một tia chớp (1993);
- Nắng (1998);
- Trăng lên (2004).
- Tuyển truyện ngắn (2011);
- Chép được ở ngoài đời (truyện ngắn, 2012).
Truyện dài, tiểu thuyết
[sửa | sửa mã nguồn]- Chị Tư Già (1966);
- Cô giáo trường Pa Nù (1969);
- Người chị – Nguyễn Thị Minh Khai (1976);
- Tiếng gió (1976);
- Hạt chò chỉ (1978);
- Người thợ máy Tôn Đức Thắng (1981);
- Khúc hát vườn trầu (1982);
- Rừng đước (1992);
- Hòn đảo một mình (1984);
- Hồi (1995);
Ký, tạp văn
[sửa | sửa mã nguồn]- Mẻ gang đầu (1965);
- Mà sao đó là cuộc đời mình (1996);
- Ngọn lửa ấm (2003);
- Người đàn bà cầm bút (2004);
- Cánh buồm nhỏ (2007).
Nghiên cứu
[sửa | sửa mã nguồn]- Chân dung văn học (chủ biên, 1992);
- Nguyễn Công Hoan, nhà văn hiện thực lớn (1993);
- Chân dung nữ văn nghệ sĩ Việt Nam (chủ biên, 1995);
- Văn hoá nghệ thuật và phụ nữ Việt Nam (1989);
- Văn hoá gia đình Việt Nam (1992);
- Hai mươi năm một chặng đường phát triển của phụ nữ Việt Nam (1996);
- Gia đình và người phụ nữ (2000);
- Gia đình của cả hai người (2003);
Nguồn: [2]
Vinh danh
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017.
Giải thưởng văn học
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải nhất Cuộc thi ký của Hội Nhà văn Việt Nam 1962;
- Giải nhất Cuộc thi Truyện ngắn của Hội Nhà văn Việt Nam 1969;
- Giải A Giải thưởng 5 năm Văn học đề tài công nhân (1980 – 1984);
- Giải A 5 năm Văn học đề tài công nhân (1991 – 1995) với tiểu thuyết Hồi.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Tuy Hòa (17 tháng 6 năm 2021). “Nhà văn Lê Minh xứng danh con gái của Nguyễn Công Hoan”. Nông nghiệp Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b c d “Nhà văn Lê Minh (1928 – 2021)”. Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2025.
- ^ “Nhà văn Lê Minh từ giã cõi trần ở tuổi 94”. Vanvn.vn. 15 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2025.
- ^ Lê Phương Liên (16 tháng 6 năm 2021). “Nhà văn Lê Minh: Tận tụy và lặng lẽ viết cho thiếu nhi”. Vanvn.vn. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2025.
- ^ “Chính thức tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho cố nhà thơ Xuân Quỳnh”. Vietnam+. 21 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2025.