Bước tới nội dung

IU (ca sĩ)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Lee.
IU
IU vào tháng 4 năm 2023
SinhLee Ji-eun
16 tháng 5, 1993 (31 tuổi)
Songjeong-dong, Seoul, Hàn Quốc
Quốc tịch Hàn Quốc
Nghề nghiệp
Năm hoạt động2008–nay
Tác phẩm nổi bậtDanh sách
Chiều cao1,62 m (5 ft 4 in)
Cân nặng45 kg (99 lb)
Giải thưởngDanh sách
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụGiọng hát
Hãng đĩa
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
李知恩
Romaja quốc ngữI Ji-eun
McCune–ReischauerYi Chi-ŭn
Hán-ViệtLý Tri Ân
Nghệ danh
Hangul
Romaja quốc ngữAiyu
McCune–ReischauerAiyu

Lee Ji-eun (tiếng Hàn: 이지은; sinh ngày 16 tháng 5 năm 1993), thường được biết đến với nghệ danh IU (tiếng Hàn: 아이유), là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ kiêm diễn viên người Hàn Quốc. Cái tên "IU" là sự kết hợp giữa 'I' và 'you', có nghĩa là "bạn và tôi hòa hợp với nhau thông qua âm nhạc."[1] Cô trở thành thực tập sinh trong công ty LOEN Entertainment (nay là Kakao Entertainment) vào năm 2008 và ra mắt với tư cách là một ca sĩ ở tuổi 15 với album Lost and Found. Mặc dù hai album kế tiếp, Growing UpIU...IM, đều nhiều lần gặt hái thành công trên thị trường nội địa, nhưng phải đến khi "Good Day" (tiếng Hàn Quốc: 좋은 날), đĩa đơn chính trong album Real năm 2010, được phát hành, IU mới đạt được vị thế của một ngôi sao quốc gia. "Good Day" dẫn đầu Bảng xếp hạng nhạc số Gaon của Hàn Quốc trong suốt 5 tuần liền và được tạp chí Billboard lựa chọn là bài hát hát K-Pop hay nhất của thập niên 2010.[2]

Với thành công của các album năm 2011, Real+ Last Fantasy, IU đã khẳng định mình là một thế lực đáng gờm trên các bảng xếp hạng âm nhạc quê nhà và củng cố thêm hình ảnh "em gái quốc dân" của Hàn Quốc.[3][4] Năm 2011 cũng chứng kiến bước đột phá đầu tiên của cô trong lĩnh vực sáng tác với ca khúc "Hold My Hand", viết cho phim truyền hình Mối tình bất diệt. Lần phát hành album đầy đủ thứ 3 của IU, Modern Times (2013), thể hiện phong cách trưởng thành hơn, đánh dấu sự rời bỏ hình ảnh nữ tính trước đó của cô, với một số ca khúc đã lọt top 10 trên Gaon Digital Chart. Album được xếp thứ hai trong danh sách "25 Album K-Pop xuất sắc nhất thập niên 2010" của Billboard.[5] IU sau đó đã nắm giữ nhiều vai trò sáng tạo hơn đối với tác phẩm âm nhạc của mình; Chat-Shire đánh dấu lần đầu tiên cô được ghi nhận là người viết lờinhà soạn nhạc duy nhất cho album của chính mình.[6] Trong khi các EP và những album đầy đủ về sau tiếp tục đi chệch khỏi phong cách K-pop chính thống, khám phá và kết hợp nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, IU vẫn luôn giữ vững vị trí thống trị trên các bảng xếp hạng âm nhạc ở quê nhà.[7][8][9] Album phòng thu thứ tư của IU, Palette (2017), đã trở thành đĩa đơn đầu tiên của cô đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng World Albums của Billboard.[10] Đĩa đơn phát hành năm 2020, "Eight", trở thành đĩa đơn đầu tiên của cô đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales.[10]

IU đã phát hành tổng cộng 5 album phòng thu và 9 đĩa mở rộng trong sự nghiệp của mình, có 5 album quán quân và 30 đĩa đơn quán quân, giúp cô trở thành nghệ sĩ có nhiều bài hát quán quân nhất tại Hàn Quốc. Là một trong những nghệ sĩ solo bán chạy nhất trong ngành công nghiệp K-pop vốn do các nhóm nhạc thống trị,[11] cô đã lọt vào danh sách Người nổi tiếng quyền lực nhất Hàn Quốc của Forbes năm 2012, đứng ở vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng năm đó.[12] Billboard công nhận IU là người dẫn đầu bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 Hàn Quốc mọi thời đại, sở hữu nhiều ca khúc quán quân nhất đồng thời là nghệ sĩ giữ vị trí quán quân trong nhiều tuần nhất.[13] Theo một cuộc khảo sát của Gallup Korea, IU là ca sĩ được yêu thích nhất tại Hàn Quốc vào năm 2014 và 2017.[14]

Bên cạnh sự nghiệp âm nhạc của mình, IU đã mạo hiểm tham gia dẫn chương trình phát thanh và truyền hình, đồng thời cô cũng lấn sân sang lĩnh vực điện ảnh. Sau vai phụ trong bộ phim dành cho tuổi teen Bay cao ước mơ và vai trò khách mời trong một số bộ phim truyền hình, IU đã đảm nhận vai chính trong You're the best! Lee Soon Shin., Pretty Man, Hậu trường giải trí, Người tình ánh trăng - Bộ bộ kinh tâm: Lệ, Ông chú của tôi, PersonaKhách sạn ma quái.

Đầu đời

[sửa | sửa mã nguồn]

IU sinh ngày 16 tháng 5 năm 1993 tại Songjeong-dong, Seoul, Hàn Quốc với tên khai sinh của cô là Lee Ji-eun.[15][16] Khi còn nhỏ, Ji-eun đã nuôi ước mơ trở thành người nổi tiếng trong ngành giải trí. Cô được bố mẹ ủng hộ và cho theo học các lớp học diễn xuất.[17] Không lâu sau khi hoàn thành chương trình tiểu học, kinh tế gia đình Ji-eun trở nên sa sút.[18] Cô và em trai phải chuyển đến Uijeongbu, tỉnh Gyeonggi sống với bà và em họ hơn một năm trong điều kiện cực kỳ khó khăn.[19][20] IU đã ít liên lạc với cha mẹ trong khoảng thời gian này nhưng cảm thấy yên tâm khi được bà ngoại chăm sóc.[20]

Trong khoảng thời gian học trung học, Ji-eun đã tìm thấy niềm đam mê ca hát và quyết định trở thành ca sĩ sau khi nhận được màn vỗ tay từ các học sinh trong trường khi trình diễn tại cuộc thi thể thao của trường.[21] Cô liên tục tham gia hơn 20 buổi thử giọng nhưng không thành, thậm chí còn bị công ty giải trí giả mạo lừa tiền.[22][23] Ji-eun từng được đào tạo tại Good Entertainment cùng với Uee, Yubin, Heo Ga-yoonJun Hyoseong. Sau khi kí hợp đồng với LOEN Entertainment vào năm 2007, cô chuyển đến Bangbae, Seoul.[24] Bất chấp dự định cho Ji-eun ra mắt với một nhóm nhạc nữ, cô đã ra mắt với tư cách là nghệ sĩ solo vào năm 2008 sau mười tháng đào tạo.[25] Do gia cảnh vào thời điểm đó khốn khó, Ji-eun chia sẻ rằng cô ấy "thích ở trường quay" hơn là ở nhà, vì tại đây cô có thể ăn uống thỏa thích và có một nơi để ngủ.[20] Trước khi ra mắt, LOEN đã đặt nghệ danh cho cô là "IU", được ghép từ "I and You" (Tôi và bạn), mang ý nghĩa âm nhạc làm con người xích lại gần nhau.[25]

Sự nghiệp nở hoa khiến cô không còn nhiều thời gian để đi học, khiến điểm số trong mọi môn, với ngoại lệ là môn văn học Hàn Quốc, ngày càng kém.[26] Sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Nữ sinh Dongduk vào năm 2012, IU quyết định không học đại học vì cô không cảm thấy tự tin là có thể học tốt với một lịch trình làm việc đầy bận rộn.[27] Quyết định của IU nhận được lời khen ngợi từ tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in. Cụ thể là trong một cuộc phỏng vấn với báo giới vào tháng 10 năm 2012, vị tổng thống đã từng khẳng định IU chính là ngôi sao K-Pop mình yêu thích nhất. "Tôi từng nghe rằng cô ấy đã lo lắng việc hoạt động nghệ thuật sẽ làm xao động đến chuyện học tập của mình, nên đã quyết định từ bỏ chuyện học để tập trung vào sự nghiệp. Với khả năng của mình, IU hoàn toàn có thể vào đại học "bằng một con đường khác" nhưng cô ấy đã không chọn lựa theo cách đó. Thật ngưỡng mộ bởi đây là nghệ sĩ có chính kiến rất rõ ràng" - Tổng thống Moon Jae In đã chia sẻ.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2008–2009: Khởi đầu sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
IU trình diễn "Boo" vào ngày 29 tháng 10 năm 2009.

Sau mười tháng đào tạo, IU ra mắt và phát hành đĩa đơn đầu tiên mang tên "Lost Child" (미아). Cô biểu diễn trực tiếp ca khúc này lần đầu tiên trên sóng truyền hình trong chương trình âm nhạc M! Countdown vào ngày 18 tháng 9 năm 2008. Đây là buổi biểu diễn đầu tiên của IU dưới tư cách là một ca sĩ chuyên nghiệp.[28] Khi hoài niệm về buổi biểu diễn hôm đó, IU kể rằng cô đã bị đám đông khán giả la ó, buông những lời xúc phạm. Dù ban đầu cảm thấy chán nản vì bị đối xử như vậy, nhưng sau này IU xem cái ngày hôm đó là một trải nghiệm đáng quý.[29] "Lost Child" là đĩa đơn chủ đề trong mini album đầu tay Lost and Found, phát hành vào ngày 24 tháng 9 năm 2008. Với album này, IU đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc trao giải "Tân binh của tháng" vào tháng 11 năm 2008.[30] Tuy nhiên, album không thành công về mặt thương mại. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2011, IU nói: "Album đầu tay của tôi tuy thất bại, nhưng tôi cảm thấy biết ơn vì điều đó. Nếu ngay khi ra mắt mà đã thành công, tôi sẽ chẳng thể biết ơn đội ngũ nhân viên của mình vì đã mang đến cho tôi sự nổi tiếng mà tôi đang tận hưởng vào lúc này."[26]

Vào ngày 23 tháng 4 năm 2009, IU tung album phòng thu đầu tiên mang tên Growing Up cùng ca khúc chủ đề "Boo". Cô bắt đầu quảng bá album mới của mình vào ngày kế tiếp, biểu diễn "Boo" trên chương trình Music Bank của KBS2.[31] Ca phẩm nhanh chóng thu hút được chú ý vì mang phong cách âm nhạc tương phản hoàn toàn "Lost Child", vốn được mô tả là một bản ballad "nặng nề" và "u ám" so với "âm hưởng retro" những năm 1980 của "Boo".[32][33] Được đánh gia là một sự thay đổi mang tính "chiến lược", vũ đạo, trang phục sân khấu và kiểu tóc của IU trong các buổi biểu diễn trực tiếp đã được sử dụng để cường điệu hóa sự trẻ trung và hướng đến một hình ảnh "dễ thương".[32][34] Dù phong cách mới thu hút được phản ứng tích cực từ công chúng, IU – lúc đó mới 15 tuổi – thừa nhận rằng hình ảnh này khiến cô cảm thấy xấu hổ.[34] Ca khúc đã được đề cử là ứng cử giải quán quân trong chương trình âm nhạc Inkigayo. Bên cạnh một số bài hát khác từ đĩa đơn mở rộng đầu tay Lost and Found, "You Know" cũng góp mặt trong album Growing Up. Một bản phối mang phong cách rock của "You Know" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn kế tiếp của "Boo".

Cuối năm 2009, IU phát hành đĩa đơn mở rộng thứ hai mang tên IU...IM. Cô bắt đầu hoạt động quảng cáo đĩa đơn chủ đề, "Marshmallow" (마쉬멜로 우), trên những chương trình âm nhạc của ba đài truyền hình lớn từ ngày 13 tháng 11 năm 2009. Bài hát được mô tả là "ngọt ngào như saccharin" với phong cách lai tạp giữa rock-and-roll của những năm 1960 và "French pop".[35] Năm 2013, khi được hỏi trong chương trình talk show Happy Together, IU – nhớ về buổi biểu diễn "Marshmallow" hôm đó – chia sẻ rằng cô không thích mặc những bộ trang phục và kiểu tóc nữ tính để quảng bá bài hát.[36] Với những buổi trình diễn được khán giả đón nhận nồng nhiệt, IU một lần nữa gắn liền với hình ảnh "dễ thương", gợi nhớ đến những nhận xét về "Boo" trước đó.[37]

Bên cạnh việc phát hành album thì vào năm 2009, IU còn tham gia thực hiện những bản nhạc phim đầu tiên của mình trong hai bộ phim của MBC là Tình Yêu Sét Đánh (2009 외인 구단) và Thiện Đức nữ vương (선덕여 왕). Cô cũng hợp tác và góp mặt trong album của một số nghệ sĩ khác như Mighty Mouth và The Three Views. Khi độ nổi tiếng của IU ngày một tăng lên, cô thường xuyên xuất hiện và biểu diễn trên nhiều chương trình tạp kỹ, bao gồm Star Golden Bell, Kim Jung-eun's ChocolateYou Hee-yeol's Sketchbook. Ngoài ra, IU với những bản cover acoustic một số ca khúc của nghệ sĩ khác như "Gee" của Girls' Generation, "Sorry, Sorry" của Super Junior và "Lies" của Big Bang trong các buổi biểu diễn trực tiếp đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng mạng.[38] Cuối năm 2009, IU lần đầu tiên trở thành người dẫn chương trình, trở thành MC của chương trình xếp hạng âm nhạc hàng tuần trên Gom TV.[39] Cô đồng thời xuất hiện với tư cách khách mời cố định trên nhiều chương trình radio như Kiss the Radio, Volume Up, Starry Night của MBC Standard FMBest Friend Radio của MBC FM4U.[40][41]

2010–2011: Trở nên nổi tiếng và vai diễn đầu tay trong một bộ phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
IU tại MelOn Music Awards 2010

Ngày 3 tháng 6 năm 2010, IU phát hành "Nagging" (잔소리), một bản song ca mà cô thu âm với Lim Seul-ong của 2AM. Ra mắt ở vị trí thứ mười hai trên Bảng xếp hạng nhạc số Gaon, ca khúc vươn lên vị trí số một vào tuần tiếp đó và giữ nguyên dẫn đầu trong ba tuần liên tục.[42] Được viết bởi Kim Eana và sáng tác bởi Lee Min-soo, bản song ca pop ballad được sử dụng làm một trong những ca khúc chủ đề cho chương trình truyền hình thực tế, We Got Married mùa thứ hai.[43] Ca khúc gặt hái nhiều thắng lợi trong các chương trình âm nhạc, giành được giải thưởng Mutizen trên Inkigayo và được đoạt vị trí quán quân trên Music Bank.[44] Không lâu sau đó, cô phát hành ca khúc "Because I'm a Woman" (여자라서) – một trong những bài hát chủ đề trong phim Tuyến đường số 1 (로드넘버원) của MBC – và đạt vị trí thứ sáu trên Bảng xếp hạng nhạc số Gaon.[45] IU sau đó đã kết hợp cùng Sung Si-kyung trong ca khúc "It's You" (그대네요) thuộc album The First của anh. Ca khúc ra mắt ở vị trí số 1 trên Bảng xếp hạng nhạc số Gaon.[46]

Mini album thứ ba của IU, Real, được phát hành vào ngày 9 tháng 12 năm 2010. Được sản xuất bởi Jo Yeong-cheol và Choi Gap-won, Real ra mắt ở vị trí thứ tư trên Gaon Album Chart.[47][48] Sau "Nagging", IU một lần nữa với người viết lời Kim Eana và nhà soạn nhạc Lee Min-soo trong ca khúc chủ đề "Good Day" (좋은 날). Theo giải thích của Kim Eana, "Good Day" mang đặc điểm uptempo,[a] nói về "một cô gái nhút nhát, lo lắng khi bày tỏ tình cảm của mình với chàng trai cô ấy thích."[49] Trong thời gian quảng bá album, IU dẫn đầu bảng xếp hạng chương trình âm nhạc M! Countdown, Music BankInkigayo.[50][51][52] Cả Kim Eana lẫn Lee Min-soon đều đánh giá yếu tố chính làm nên thành công của bài hát là việc sử dụng từ "oppa" (오빠) trong phần điệp khúc, cũng như ba nốt cao mà IU hát tăng thêm nửa cung trong phân đoạn cao trào của bài hát.[53] Ngoài việc nhận được nhiều lời khen ngợi về khả năng thanh nhạc, số lượng người hâm mộ ở nhiều lứa tuổi khác nhau của IU ngày càng trở nên đông đảo và đa dạng hơn so với các nhóm nhạc K-pop khác.[54][55]

IU tại sự kiện ra mắt Disney Channel và Disney Junior ở Hàn Quốc vào ngày 29 tháng 6 năm 2011

Để duy trì tần suất xuất hiện trước công chúng, IU tham gia chương trình truyền hình thực tế Heroes, phát sóng từ ngày 18 tháng 7 năm 2010 đến ngày 1 tháng 5 năm 2011.[56] Hồi tưởng lại về những ngày tham gia chương trình, IU kể một cách trìu mến về tình bạn thân thiết mà cô ấy đã gây dựng với các thành viên khác dù lịch quay bận rộn trong hai ngày chỉ cho phép họ ngủ hai, ba giờ.[57] Không lâu sau khi tham gia Heroes, IU góp mặt trong bộ phim tuổi teen Bay cao ước mơ (드림하이). Quá trình quay phim diễn ra từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 2 năm 2011, trong thời gian đó cô vẫn tham gia Heroes và tiếp tục các hoạt động quảng bá "Good Day".[58] Trong vai diễn đầu tiên của mình, IU vào vai Kim Pil-sook, một nữ sinh nhút nhát và thừa cân có ước mơ trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Cô thừa nhận rằng bản thân ban đầu vẫn còn nghi ngờ về khả năng sẵn sàng tham gia diễn xuất, nhưng IU chia sẻ rằng cô ấy đã cảm thấy tự tin khi biết rằng phân đoạn đó yêu cầu nhân vật phải hát và coi đây như một trải nghiệm cực kỳ thú vị.[25][55] Bên cạnh việc diễn xuất, IU phát hành một ca khúc nhạc phim mang tên "Someday", dẫn đầu Bảng xếp hạng nhạc số Gaon trong tuần từ 30 tháng 1 đến 5 tháng 2 năm 2011.[59] Đến cuối năm 2011, đĩa đơn này đã bán được 2.209.924 bản kỹ thuật số và là một trong những đĩa đơn nhạc phim bán chạy nhất của IU.[60]

Một mini album nối tiếp Real được phát hành vào ngày 16 tháng 2 năm 2011 với tựa đề Real + gồm ba bài hát.[61] Ca khúc chủ đề, "Only I Did not Know" (나만 몰랐던 이야기), được sáng tác bởi ca sĩ kiêm nhạc sĩ Yoon Sang với phần lời do Kim Eana chấp bút. Yoon Sang viết bài hát tặng IU sau khi phát hiện cô có biểu cảm buồn thoáng qua trên một chương trình truyền hình.[62] Giai điệu ballad của "Only I Did not Know" khác với những ca khúc phát hành trước đó của cô. IU mô tả ca khúc tuy mang âm hưởng "u ám", "đượm buồn" nhưng "hoài cổ", gần với gu âm nhạc của cô hơn.[17][55] Bài hát thể hiện tốt về mặt thương mại, ra mắt ở vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart.[63]

IU trình diễn trên sân khấu KBS Music Festival vào ngày 30 tháng 12 năm 2011

IU nhận lời tham gia nhiều dự án phụ khác nhau sau khi Bay cao ước mơ kết thúc. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2011, IU mở màn buổi hòa nhạc solo đầu tiên của ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Corinne Bailey Rae tại Seoul với hai bài hát trước khi song ca cùng Bailey Rae trong ca khúc "Put Your Records On".[64] Bailey Rae – người mà IU xem là hình mẫu của mình – chia sẻ rằng: "Thật không thể tin được rằng giọng hát của cô ấy (IU) lại có hồn dù cô còn trẻ như vậy."[65] Cùng tháng, IU được chọn làm người dẫn chương trình của chương trình âm nhạc Inkigayo thuộc đài SBS, trọng trách mà cô nắm giữ cho đến tháng 7 năm 2013.[66] Cô tham gia đóng hai video âm nhạc cho mini album mới của K.Will bên cạnh hai người bạn diễn là Lee JoonNo Min-woo.[67][68] Vào tháng 5 năm 2011, IU thu âm ca khúc tự sáng tác đầu tiên của mình mang tên "Hold My Hand" (내 손을 잡아), cho bộ phim truyền hình hài lãng mạn Mối tình bất diệt (최고의 사랑).[69] Vì là lần đầu tiên sáng tác một bài hát không phải cho bản thân mà theo yêu cầu của nhà sản xuất bộ phim, IU cảm thấy rằng đây là một trải nghiệm khó khăn vì ca khúc này phải phù hợp với giai điệu vui vẻ của phim.[70] Bài hát đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart và bán được 2.031.787 bản kỹ thuật số trong năm 2011.[60][71] Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2011, IU trở thành thí sinh trong serie thi trượt băng thực tế, Kim Yuna's Kiss & Cry, dưới tư cách một người nổi tiếng cho đến khi bị loại ở tập thứ tám.[72][73] Trong khoảng thời gian này, cô cũng tham gia Immortal Songs: Singing the Legend nhưng cuối cùng đã phải rút lui chỉ sau một tập ghi hình vì lịch trình công việc dày đặc.[74][75] Nói về hoạt động đa dạng trong lĩnh vực giải trí của mình, IU nhận xét rằng dù tất cả đều có những khó khăn riêng nhưng truyền hình thực tế mới là thứ gây mệt mỏi nhất.[70]

Album phòng thu thứ hai của IU, Last Fantasy, được phát hành vào ngày 29 tháng 11 năm 2011 với hai phiên bản, một phiên bản bán lẻ thông thường và một phiên bản truyện đặc biệt với chỉ 15.000 bản được sản xuất.[76] Tờ Korea JoongAng Daily mô tả album "phù hợp với tất cả các loại thị hiếu âm nhạc hay bất kỳ người hâm mộ nào", trong khi Billboard đánh giá cao "âm hưởng điện ảnh" của album, định hình bởi ca khúc mở đầu "Secret" (비밀).[77][78] Được sản xuất bởi Jo Yeong-cheol, người trước đó đã từng làm việc cùng IU trong album Real, album mới này bao gồm các tác phẩm hợp tác với các ca sĩ kiêm nhạc sĩ như Yoon Sang, Lee Juck và Ra.D. Tổng số lượt tải xuống của mọi bài hát trong album vượt quá 10 triệu lượt chỉ trong vòng hai tuần đầu tiên.[79] 8 trong số 13 bài hát của album đã lọt vào top 10 trên Bảng xếp hạng số Gaon, trong khi bản thân album đứng ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng album Gaon.[80][81] Ca khúc chủ đề "You and I" (너랑 나) trở thành đĩa đơn thành công nhất về mặt thương mại của IU với gần 5.5 triệu bản kỹ thuật số được bán ra tính đến cuối năm 2012.[82] Ca khúc chiếm giữ vị trí quán quân trên Bảng xếp hạng Gaon cũng như bảng xếp hạng Billboard Korea K-Pop Hot 100 mới, ra mắt không lâu trước khi ca khúc được phát hành.[81][83]

Không lâu trước khi phát hành Last Fantasy, IU ký hợp đồng với EMI Music Japan (nay là một phần của Universal Music Japan) làm bước đệm cho cuộc Nhật tiến sắp tới của cô.[84] Một số bài hát đã phát hành trước đây của IU đã được lựa chọn và tổng hợp thành một mini album có tên I□U và được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 14 tháng 12 năm 2011.[85]

2012: Ra mắt tại Nhật Bản và chuyến lưu diễn solo đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]
IU performing at Expo Pop Festival on July 3, 2012.

Trong lúc vẫn tiếp tục quảng bá Last Fantasy và ca khúc chủ đề "You and I" tại Hàn Quốc trong năm 2012, IU bắt đầu chuẩn bị cho màn ra mắt của cô tại Nhật Bản với hai buổi biểu diễn tại Bunkamura Orchard Hall ở Shibuya, Tokyo với sự tham gia của khoảng 4.000 khán giả vào ngày 24 tháng 1 năm 2012.[28] Cô trình bày 6 ca khúc bao gồm cả bài hát ra mắt "Lost Child" cũng như phiên bản tiếng Nhật của "Good Day".[28][86] Sau buổi hòa nhạc, cả "Good Day" lẫn "You and I" với phần lời bài hát được dịch đều được phát hành dưới dạng đĩa đơn mới tại Nhật và gặt hái thành công. Theo Oricon Singles Chart, "Good Day" đã bán được 21.000 bản vật lý trong tuần đầu tiên phát hành, ra mắt ở vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng.[87] "Good Day" sau đó leo lên vị trí số 5 trên Billboard Japan Hot 100[88] trong khi "You and I" đạt vị trí thứ 4 trên Oricon Singles Chart và vị trí thứ 11 trên Billboard Japan Hot 100.[89][90] Để hỗ trợ cho việc phát hành đĩa đơn tiếng Nhật, IU lưu diễn năm thành phố Tokyo, Sapporo, Nagoya, OsakaFukuoka trong chuỗi mini-concert có tên "IU Friendship Showcase - Spring 2012".[91]

IU bắt đầu chuyến lưu diễn solo đầu tiên của mình, mang tên "Real Fantasy", vào tháng 6 năm 2012. Cô biểu diễn tại sáu thành phố khác nhau trên khắp nước Hàn, bắt đầu với hai buổi biểu diễn ở Seoul.[92] Vé tham dự các buổi chiếu mở màn vào ngày 2–3 tháng 6 được bán hết trong vòng 30 phút sau khi ban tổ chức bắt đầu bán vé vào ngày 17 tháng 4.[93] Theo báo cáo, 43,8% người mua vé nằm ở độ tuổi từ 20 đến 29, trong khi 71% là nam giới, điều này được coi là không phổ biến đối với một buổi hòa nhạc K-pop.[93] Chuyến lưu diễn tiếp tục với các buổi biểu diễn tại Ulsan, Jeonju, Suwon, BusanDaegu, trước khi quay trở lại Seoul và kết thúc với hai buổi hòa nhạc encore vào ngày 23 tháng 9 năm 2012.[94] Các vị khách mời có mặt trong buổi biểu diễn này của IU gồm có Ra.D, Lim Seul-ongLee Seung-gi.[95]

Vì đã quyết tâm cam kết chuẩn bị cho chuyến lưu diễn solo đầu tiên của mình, IU không thể thực hiện các đợt quảng bá phát sóng cho đĩa đơn mở rộng thứ năm mang tên Spring of a Twenty Year Old của cô. Mini album này, được đặt tên để kỷ niệm IU bước sang tuổi 20 (tính theo tuổi Hàn Quốc), gồm ba bài hát với ca khúc chủ đạo là "Peach" (복숭아).[96] Là một tác phẩm do chính IU sáng tác, "Peach" đạt vị trí thứ hai trên Gaon Digital Chart và vị trí thứ ba trên Billboard K-pop Hot 100.[97][98] Đĩa đơn thứ hai từ EP này là "Every End of the Day" (하루 끝), dẫn đầu Gaon Digital Chart trong vòng 2 tuần và Billboard K-pop Hot 100 trong bốn tuần.[3][99] Thay cho một video âm nhạc với thời lượng 4-5 phút như thường lệ thường được phát hành song song khi một nghệ sĩ tung ra đĩa đơn mới thì IU lần này đã phát hành cùng với album một phim ngắn chứa cả 3 ca khúc với dáng dấp của một bộ phim tài liệu và thời lượng dài 26 phút cùng các cảnh quay được thực hiện tại VeneziaBurano, Ý.[96]

IU tại buổi hòa nhạc encore vào ngày 23 tháng 9 năm 2012

IU trở lại Nhật Bản vào ngày 17 tháng 9 năm 2012 để thực hiện một chương trình có tên "IU Friendship Special Concert - Autumn 2012", tại Diễn đàn Quốc tế Tokyo trước đám đông hơn 5000 người.[100] Với Sunny Hill trong vai trò khách mời, IU không chỉ trình diễn những bài hát của cô mà còn cover một số bài hát tiếng Hàn và tiếng Nhật như "Juliette" của Shinee, "Friend" của Anzen Chitai và "Aishiteru" từ series anime Natsume's Book of Friends.[101] Bản thu âm trực tiếp của "Friend" và "Aishiteru" từ sự kiện này sau đó đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số quảng cáo. Khi chuyến lưu diễn và quảng bá "Real Fantasy" tại Nhật Bản gần kết thúc, IU tiếp tục đảm nhận vai trò dẫn chương trình trên Inkigayo sau khi phải xin nghỉ phép ba tháng để lưu diễn.[102] Cô cũng trở thành người dẫn chương trình đố vui Quiz Show Q của MBC bên cạnh hai người bạn dẫn Park Myeong-suSun Bom Soo.[103] Vào ngày 29 tháng 12, IU cùng Bae Suzy và nam diễn viên Jung Gyu-woo đã trở thành MC của chương trình âm nhạc thường niên SBS Gayo Daejeon 2012. Ban tổ chức chương trình đã lựa chọn IU vì đánh giá cao kỹ năng dẫn chương trình mà cô đã thể hiện trên Inkigayo.[104]

Với những thành tích của mình trong năm 2012, IU nhận về hai giải thưởng tại Giải thưởng âm nhạc Seoul 2012, với "Last Fantasy" được vinh danh là Bản thu âm của năm, trong khi cô nằm trong số mười nghệ sĩ được trao giải Bonsang.[105] Tại Giải thưởng Âm nhạc Hàn Quốc, "Good Day" được vinh danh là Bài hát của nămBài hát nhạc Pop xuất sắc nhất, trong khi cô được vinh danh là Nghệ sĩ nữ của năm do cư dân mạng bình chọn.[106] Tạp chí Billboard vinh danh IU là một trong những nhạc sĩ dưới 21 tuổi hot nhất năm 2012 vì sở hữu "sức hút độc đáo và những bản hit không thể phủ nhận, [những yếu tố] góp phần giúp cô trở thành một siêu sao thực thụ".[3]

2013: Vai chính đầu tiên và Modern Times

[sửa | sửa mã nguồn]
IU tại buổi hòa nhạc Modern TimesBusan vào ngày 1 tháng 12 năm 2013

IU khởi đầu năm 2013 với vai diễn chính đầu tiên trong sự nghiệp trong một bộ phim truyền hình mang tên Lee Soon Shin Là Tuyệt Nhất! (tiếng Hàn Quốc: 최고다 이순신). Bộ phim dài 50 tập, phát sóng hàng tuần vào ngày cuối tuần, được chiếu từ ngày 9 tháng 3 đến ngày 25 tháng 8 trên kênh KBS2. Nhân vật do IU thủ vai được mô tả là một "kẻ thất bại", người có vẻ trung bình về mọi mặt ngoại trừ tính cách táo bạo và tươi sáng, giúp cô vượt qua khó khăn.[107] Bất chấp những lo lắng về việc lựa chọn một người được khán giả đại chúng biết đến nhiều hơn với tư cách là một ca sĩ vào vai diễn này, đạo diễn Yoon Sung-sik đã quyết định chọn IU sau khi xem màn trình diễn của cô trong Bay cao ước mơ và cho rằng cô phù hợp với hình tượng nhân vật mà ông đã hình dung.[108] Các bạn diễn Go Doo-shimLee Ji-hoon, cũng như ê-kíp sản xuất, lần lượt khen ngợi kỹ năng diễn xuất của IU, đặc biệt là trong những phân cảnh tình cảm.[109][110][111] Bộ phim đạt được tỷ suất người xem cao nhất là 30,8%.[112] Màn trình diễn của IU đã nhận được những đánh giá tích cực từ giới phê bình bất chấp những nghi ngờ ban đầu khi cô được lựa chọn vào vai diễn này.[113] IU được đề cử cho giải Diễn xuất xuất sắc (Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong một bộ phim truyền hình dài tập) tại Giải KBS Drama 2013. IU đã cùng bạn diễn Jo Jung-suk phát hành một bản song ca do cô tự sáng tác mang tên "Beautiful Song" (tiếng Hàn Quốc: 예쁘다송), tuy nhiên ca khúc không có mặt trong danh sách nhạc phim chính thức.[114]

Cũng trong thời gian này, IU phát hành đĩa đơn mở rộng tiếng Nhật thứ hai mang tên Can You Hear Me ?, gồm các bài hát gốc tiếng Nhật đầu tiên của cô. Hai bài hát trong album được phát hành dưới dạng đĩa đơn – "Beautiful Dancer" và "New World" – lần lượt đạt vị trí thứ 66 và 76 trên Billboard Japan Hot 100, xếp hạng thấp hơn đáng kể so với phiên bản dịch tiếng Nhật của "Good Day" và "You and I", là những ca khúc từng lọt vào top 10.[115] Rolling Stone Japan đã đưa ra lời nhận xét tích cực về album, đánh giá cao "Beautiful Dancer" và "Truth" là những ca khúc nổi bật.[116] Trong một cuộc phỏng vấn với Oricon, IU kể lại cô ấy đã bị sốc và xúc động như thế nào khi nhận được "Beautiful Dancer" và "Truth" từ hai nhà sản xuất R&B Jimmy Jam và Terry Lewis.[117] Đĩa đơn tiếng Nhật tiếp theo của cô, "Monday Afternoon", được phát hành vào ngày 11 tháng 9 năm 2013, ra mắt ở vị trí thứ 27 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100 và vị trí thứ 9 trên Japan's Oricon Daily Chart.[118][119]

Gần hai năm sau Last Fantasy, IU phát hành album phòng thu thứ ba với tên gọi Modern Times vào ngày 8 tháng 10 năm 2013. Modern Times được mô tả là "một sự thay đổi lớn từ cái gốc K-pop của nữ ca sĩ trẻ" thể hiện một "giai điệu và hình ảnh trưởng thành và tinh tế hơn" so với những tác phẩm trước của cô.[120].[121] IU tự sáng tác và viết 2 trong số 13 bài hát trong album, sử dụng các giai điệu từ swing đến jazz, bossa nova, Latin pop và folk. Sự đa dạng của phong cách nhạc jazz cũng như những màn phối hợp ăn ý mới các nghệ sĩ đã được Billboard, The Korea HeraldSeoul Beats đánh giá cao.[4][122][123] Billboard đã mô tả album này là một album chứa đựng "những rung cảm hồi tưởng với một giai điệu hiện đại của bản thu âm Back to Basics của Christina Aguilera", mà trong đó IU đã chứng tỏ mình có "[khả năng] cảm thụ âm nhạc vượt xa một [con người] tuổi 20 điển hình."[4] Tờ Korea Herald viết: "...giai điệu cổ điển và hiệu ứng hiện đại được kết hợp với nhau một cách nghệ thuật, tạo thành một bản tổng hợp các bài hát [tuy] mới mẻ nhưng quen thuộc. Modern Times chứa một cảm giác vô tư đặc biệt gợi nhớ đến giai điệu nhạc jazz trong Roaring Twenties."[122] Đánh giá cao về album, Seoul Beats viết: "Với giai điệu đậm chất nhạc jazz [...] IU đã mang đến một luồng gió mới cho K-pop ... Sức mạnh thực sự của album là cách các bài hát liên kết với nhau một cách liền mạch."[123] Modern Times ra mắt ở vị trí số một trên Gaon Album Chart, trong khi bảy ca khúc còn lại lần lượt đạt mười vị trí dẫn đầu trên Gaon Digital Chart với đĩa đơn chủ đề, "The Red Shoes" (tiếng Hàn Quốc: 분홍신), đứng ở vị trí số một.[124][125] Bên cạnh đó, album đứng ở vị trí thứ 4 trên Billboard's World Albums Chart, với 12 bài đều lọt vào bảng xếp hạng Korea K-Pop Hot 100.[126][127]

IU tại buổi hòa nhạc Ariang vào ngày 27 tháng 10 năm 2013

Trung tuần thứ hai của đợt quảng bá cho Modern Times, IU quyết định tham gia bộ phim hài – lãng mạn Tuyệt Sắc Nam Nhân (tiếng Hàn Quốc: 예쁜남자).[128] Cô đảm nhận vai diễn "kỳ quặc" và "nghịch ngợm" Kim Bo-tong, một cô gái vô tư ở tuổi đôi mươi đã phải lòng nam chính từ thời trung học.[128] Bộ phim được phát sóng từ ngày 20 tháng 11 năm 2013 đến ngày 9 tháng 1 năm 2014 trên kênh KBS2 nhưng chỉ đạt tỷ suất người xem thấp.[129] Với màn thể hiện của mình trong Tuyệt Sắc Nam Nhân, IU đã được đề cử ở hạng mục Nữ diễn viên Hàn Quốc xuất sắc tại Lễ trao giải Phim truyền hình Quốc tế Seoul năm 2014.[130]

Để quảng bá Modern Times, IU đã tổ chức chuỗi concert cá nhân thứ hai của mình với ba buổi diễn, khởi đầu vào ngày 23-24 tháng 11 năm 2013 tại Hội trường Hòa bình của Đại học Kyung Hee ở Seoul và kết thúc vào ngày 1 tháng 12 năm 2013 tại Hội trường KBS ở Busan.[131] Hoạt động quảng bá cho Modern Times tiếp tục sang năm 2014 và IU lần đầu tiên biểu diễn tại Hồng Kông trong một buổi hòa nhạc solo.[132]

Một phiên bản phát hành lại của Modern Times có tựa đề Modern Times - Epilogue, được phát hành vào ngày 20 tháng 12 năm 2013, bổ sung hai ca khúc "Friday" (tiếng Hàn Quốc: 금요일에 만나요) và "Pastel Crayon" (tiếng Hàn Quốc: 크레파스). "Friday" là một tác phẩm do chính IU sáng tác, ban đầu được dự định đưa vào bản gốc của Modern Times nhưng sau đó được phát hành dưới dạng ca khúc chủ đề của Modern Times - Epilogue.[133] Được mô tả là "bản swing-pop, acoustic có nhịp độ trung bình", "Friday" chiếm giữ vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Korea K-Pop Hot 100 trong vòng hai tuần sau khi phát hành.[83][134] "Friday" cũng giành được vị trí số một trên Gaon Digital Chart và trở thành đĩa đơn kỹ thuật số bán chạy thứ 10 trong năm 2014.[135][136] Ca khúc chứng minh được sức hút khi đồng thời xếp hạng nhất trên cả ba chương trình âm nhạc lớn của Hàn Quốc dù không có bất kỳ buổi biểu diễn trực tiếp nào.[137]

2014: A Flower Bookmark

[sửa | sửa mã nguồn]
IU tại Melon Music Awards vào ngày 13 tháng 11 năm 2014.

IU phát hành đĩa đơn mở rộng bằng tiếng Hàn thứ sau và album cover đầu tiên mang tên A Flower Bookmark (tiếng Hàn Quốc: 꽃갈피), ​​vào ngày 16 tháng 5 năm 2014. Album bao gồm các bản cover của 7 ca khúc K-pop nổi tiếng của những năm 1980 và 1990 với sự kết hợp của nhiều thể loại bao gồm ballad, dance, dân gian và rock.[138] Mini album ra mắt theo yêu cầu của người hâm mộ và do những phản hồi tích cực trước đó cho các bản cover mà IU thể hiện.[139] Ba bài hát lọt vào top 10 trên Gaon Digital Chart trong tuần phát hành, trong khi ca khúc chủ đề "My Old Story" (tiếng Hàn Quốc: 나의 옛날 이야기) cuối cùng đã leo lên vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng.[140][141] Tuy nhiên, màn kết hợp giữa cô và Kim Chang-wan trong phiên bản làm lại ca khúc "The Meaning of You" (너의 의미) năm 1984 của ông mới là bài hát bán chạy nhất trong album và cũng là đĩa đơn bán chạy nhất của IU trong năm 2014.[142] Mini album được The Korea Times đón nhận nồng nhiệt vì đã mang đến "một khoảng thời gian nghỉ ngơi thoải mái, êm dịu trong xu hướng âm nhạc chủ đạo của thời đại ngày nay", đồng thời ca ngợi IU cùng những bản cover của cô: "Đối với mỗi ca khúc, IU luôn cân bằng một cách cẩn thận giữa việc lưu giữ những xúc cảm ban đầu của bài hát và thay đổi bản gốc bằng màu sắc và cách sắp xếp của riêng cô ấy."[143] Billboard đã đánh giá ca khúc "Pierrot Smiles at Us" (삐에로 는 우릴 보고 웃지) là "giai điệu tham vọng nhất mà cô ấy xử lý" và là bài hát chứng tỏ sự đa dạng của IU dưới tư cách là một ca sĩ.[77] A Flower Bookmark được Billboard lựa chọn là Album K-Pop xuất sắc thứ 3 năm 2014 và được đề cử giải Album của năm tại Giải Âm nhạc MelOn 2014.[144][145]

Mong muốn tổ chức một buổi hòa nhạc quy mô nhỏ và thân mật hơn của IU đã được thực hiện trong chuỗi concert solo thứ ba của cô ấy, "Just One Step...That Many More".[146] Chuỗi concert diễn ra trong tám đêm từ ngày 22 tháng 5 năm 2014 đến ngày 1 tháng 6 năm 2014 tại Mary Hall của Đại học Sogang, có sức chứa 450 người.[147] Vé của cả tám buổi diễn đã được bán hết trong vòng 10 phút sau khi phát hành vào ngày 7 tháng 5 năm 2014.[147] Lần đầu chơi keyboard trên sân khấu, IU đã trình diễn tất cả bảy bài hát trong A Flower Bookmark song song với các bản phối mới của các bài hát trước đó của cô.[146] Những khách mời tham gia các buổi hòa nhạc này của IU bao gồm Kim Jong-hyun, Jung Yong-hwa, Hwang Kwanghee, Kim Bum-soo, Lim Seul-ong, Jo Jung-suk, Ha Dong-kyunAkdong Musician.[148] Lợi nhuận thu được từ các buổi hòa nhạc trên đã được dùng để quyên góp cho các nạn nhân của Thảm họa phà Sewol.[149]

Hai tháng sau khi các buổi hòa nhạc solo kết thúc, IU đã có buổi biểu diễn đầu tiên ở Hoa Kỳ tại lễ hội âm nhạc KCON được tổ chức ở Los Angeles vào ngày 9-10 tháng 8.[150] IU là nữ nghệ sĩ duy nhất trình diễn trong ngày đầu của lễ hội KCON. Cô đã thể hiện 4 ca khúc "The Red Shoes", "You and I", "Friday" và "You Know".[150] Trong bài đánh giá của mình, Los Angeles Time cho rằng IU đã có một "màn trình diễn vui vẻ, và với tư cách là một nữ ca sĩ solo, cô ấy đã phá vỡ khuôn mẫu của giới ngôi sao K-pop."[151] Sự kiện KCON năm 2014 đã có khoảng 42.000 người tham dự.[152] Trong một cuộc phỏng vấn với Billboard, IU bày tỏ sự lo lắng khi biểu diễn tại sự kiện này: "Tôi luôn cảm thấy lo lắng khi biểu diễn tại các chương trình quốc tế...Tôi nghĩ mình cần phải học tiếng Anh cho chuyến thăm Mỹ tiếp theo. Thật ngột ngạt khi không thể giao lưu cùng người hâm mộ..."[153]

Xuyên suốt năm 2014, những màn hợp tác giữa IU cùng các nghệ sĩ khác đã tạo ra các bản hit top 10: "Not Spring, Love, or Cherry Blossoms" (tiếng Hàn Quốc: 봄, 사랑, 벚꽃 말고), đĩa đơn đầu tay của High4, có sự góp mặt của IU với tư cách là người viết lời đã dẫn đầu trên cả Gaon Digital Chart và Billboard Korea K-Pop Hot 100;[13][154] "Anxious Heart" (tiếng Hàn Quốc: 애타는 마음), thu âm bởi Ulala Session và IU vào năm 2012 nhưng được phát hành trễ một năm do cái chết đột ngột của giọng ca chính Ulala Session, đã leo lên vị trí thứ 4 trên Gaon Digital Chart;[155][156] "Sing for Me" (tiếng Hàn Quốc: 노래 불러줘요), được phát hành như một phần của album phòng thu thứ 8 của g.o.d, đạt vị trí thứ 9 trên Gaon Digital Chart;[157][158] "Sogyeokdong" (tiếng Hàn Quốc: 소격동), được viết bởi Seo Taiji cho album Quiet Night của anh và được trình bày bởi IU trong phiên bản phát hành ngày 2 tháng 10, ra mắt ở vị trí thứ 4 trên Gaon Digital Chart;[159][160] và "When Would It Be" (tiếng Hàn Quốc: 언제쯤이면), một bản song ca với đồng nghiệp cùng công ty Yoon Hyun-sang trong album đầu tay của anh, Pianoforte, cũng đạt vị trí thứ 9 trên Gaon Digital Chart.[161][162] Sau khi "Not Spring, Love, or Cherry Blossoms" dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hàn Quốc K-Pop Hot 100, IU trở thành "người dẫn đầu bảng xếp hạng mọi thời đại" với năm ca khúc quán quân và là nghệ sĩ có nhiều tuần đứng ở vị trí số 1 nhất kể từ khi bảng xếp hạng được tạo ra vào tháng 9 năm 2011.[13]

2015–2016: Thành công tiếp nối trong mảng diễn xuất và các EP tiếp theo

[sửa | sửa mã nguồn]
IU trong buổi biểu diễn Chat-Shire vào ngày 29 tháng 11 năm 2015

Năm 2015, hai năm sau khi đảm nhận vai diễn cuối cùng, IU trở thành nữ chính trong Hậu trường giải trí (프로 듀사) – được mệnh danh là một trong những bộ phim truyền hình được mong đợi nhất của năm ở Hàn Quốc – bên cạnh Kim Soo-hyun, Cha Tae-hyunGong Hyo-jin.[163] Cô vào vai Cindy, một ca sĩ diva, người quyết định tham gia một chương trình truyền hình thực tế để cải thiện hình ảnh trước công chúng. Phân tích phong thái của nhân vật mà mình thủ vai, IU nhận xét rằng cô ấy có thể liên kết "thái độ cắn xé" của nhân vật với bản thân và tính cách của nữ diva ấy giống với bản thân cô như thế nào.[163] Cả nội dung lẫn vai diễn Cindy của IU vấp phải những đánh giá không mấy tích cực khi công chiếu nhưng lượng người xem cũng như phản ứng phê bình đã dần được cải thiện xuyên suốt thời gian chiếu của bộ phim, với tỷ suất người xem đạt mức cao nhất là 17,7% ở tập cuối.[164][165] Trong vai Cindy, IU đã thể hiện hai ca khúc "Twenty Three" và "Heart" (마음), cả hai bài đều có mặt trong mini album Chat-Shire được phát hành cùng năm. Trong khi đảm nhận công việc biên soạn lời cho cả hai ca khúc, cô cũng biên soạn nhạc cho "Heart", được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 18 tháng 5.[166][167] "Heart" dẫn đầu bảng xếp hạng khi phát hành và tiếp tục trở thành đĩa đơn kỹ thuật số bán chạy thứ mười trong năm 2015 tại Hàn Quốc. "Heart" nằm trong số một loạt bài hát K-pop được Bộ Quốc phòng Hàn Quốc sử dụng trong các chương trình phát sóng tuyên truyền tới Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thời kỳ căng thẳng giữa hai nước vào tháng 8 năm 2015, với mục đích quảng cáo "văn hóa trẻ Hàn Quốc".[168][169] Thông qua Hậu trường giải trí, tên tuổi IU ở Trung Quốc nổi lên như diều gặp gió. Cô được cho là đã nhận được lời mời tham gia vài dự án từ một số công ty Trung Quốc.[170]

Sau khi hoàn thành Hậu trường giải trí, IU tham gia sự kiện lễ hội âm nhạc diễn ra hai năm một lần được tổ chức bởi chương trình truyền hình thực tế Infinite Challenge. Trong chương trình này, mỗi ca sĩ, nhạc sĩ tham gia sẽ hợp tác với một trong sáu người dẫn chương trình để tạo ra một bài hát cho lễ hội. Quá trình chuẩn bị và lễ hội được phát sóng trong suốt bảy tập. IU hợp tác với Park Myeong-su để thực hiện bài hát với tựa đề "Leon" (lấy cảm hứng từ bộ phim Léon: The Professional). Sự kiện biểu diễn trực tiếp vào ngày 13 tháng 8 năm 2015 đã thu hút khoảng 40.000 khán giả tại Sân vận động Trượt tuyết nhảy xa Alpensia và phát sóng trong tập cuối cùng của chương trình, đạt được tỷ suất người xem lên tới 21,1% vào ngày 22 tháng 8 năm 2015.[171] Sau khi phát sóng tập cuối cùng, "Leon" cùng các bài hát khác đã được phát hành dưới dạng kỹ thuật số và nằm trong album chính thức của lễ hội. "Leon" đạt vị trí số 1 trên tất cả các bảng xếp hạng âm nhạc tại Hàn Quốc khi phát hành.[172]

IU tại buổi biểu diễn 24 Steps - One, Two, Three, Four vào ngày 3 tháng 12 năm 2016.

Đĩa đơn mở rộng tiếng Hàn thứ bảy của IU, Chat-Shire, được phát hành kỹ thuật số vào ngày 23 tháng 10 năm 2015 trước khi phát hành đĩa vật lý vào ngày 27 tháng 10 năm 2015. Đối với mini album lần này, IU viết lời cho tất cả 7 bài hát (cũng như 2 bài hát bổ sung của album vật lý) đồng thời đích thân tham gia soạn nhạc cho 5 bài hát khác nhau. Cô được ghi danh là nhà điều hành sản xuất của album.[173] Đĩa đơn chủ đề, "Twenty-Three" (스물셋), dẫn đầu bảng xếp hạng âm nhạc quốc gia sau khi phát hành, một số bài hát của album cũng nằm trong top 10. Album leo lên vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng World Albums của Billboard.[174] Billboard đánh giá Chat-Shire là một album đáng "phải nghe", chứa "một số ca khúc mang tính cá nhân nhất của [IU]". Billboard cũng gọi tên "The Shower" (푸르던) là ca khúc nổi bật nhất trong lần comeback này của IU.[6][77] Seoul Beats cũng đề cao "chất lượng mang tính cá nhân" được thể hiện trong nhiều bài hát của album và ca ngợi "sự trưởng thành của một nghệ sĩ" và sự sẵn sàng thử nghiệm những thứ mới lạ.[175][176]

Bất chấp những đánh giá tích cực và thành công trên các bảng xếp hạng âm nhạc, album vẫn gây tranh cãi do lời bài hát của "Zezé" và các mẫu âm thanh được sử dụng trong bài hát bổ sung "Twenty Three" (không nên nhầm lẫn với đĩa đơn chủ đạo có cùng tựa đề).[177] Vào ngày 4 tháng 11, nhà xuất bản phiên bản tiếng Hàn của cuốn Cây cam ngọt của tôi – mà IU sử dụng làm nguồn cảm hứng cho bài "Zezé" – đã gây ra một cuộc tranh cãi trong ngành giải trí khi họ chỉ trích IU vì cho rằng cô đã có những suy nghĩ lệch lạc về nhân vật chính mới chỉ 5 tuổi, xem cậu bé như một "đối tượng tình dục".[178][179] Hai ngày sau, IU đưa ra lời xin lỗi và giải thích: "Tôi không có ý định biến Zezé thành một đối tượng gợi dục. Zezé trong ca khúc của tôi là một nhân vật mới, được tôi tạo ra dựa vào cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết. Nhưng tôi nhận thấy phần ca từ trong ca khúc đã gây xúc phạm tới nhiều người và tôi muốn được xin lỗi vì điều đó."[178] Vào ngày 10 tháng 11, nhà xuất bản đã đưa ra lời xin lỗi vì đã không thừa nhận "sự phong phú trong cách diễn giải".[178][179] Đối với ca khúc bổ sung "Twenty Three", IU bị tố là sử dụng màu giọng của Britney Spears trong ca khúc "Gimme More" mà chưa xin phép.[180] Billboard đánh giá Chat-Shire là album K-pop hay thứ 6 trong năm 2015, giải thích rằng "IU biết cách tiếp thu những âm điệu của ngày hôm qua và biến chúng thành những kết quả tuyệt vời."[181]

Trước khi phát hành Chat-Shire, LOEN đã thông báo rằng IU sẽ không tham gia vào các hoạt động quảng bá cho album và thay vào đó, cô sẽ tổ chức một chuyến lưu diễn toàn quốc từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2015.[182] Chuyến lưu diễn quốc gia Chat-Shire bắt đầu tại Seoul vào ngày 21 tháng 11 và tiếp tục đến Busan, DaeguGwangju, trước khi quay trở lại Seoul và kết thúc tại đây vào ngày 31 tháng 12.[183][184] Giữa chuyến lưu diễn Chat-Shire ở Hàn Quốc, IU cũng tăng cường hoạt động quảng bá ở Hồng Kông, Trung Quốc và Đài Loan, tổ chức các buổi họp mặt người hâm mộ và các buổi hòa nhạc ở nhiều thành phố khác nhau cũng như phát hành một album tổng hợp, Smash Hits, tại thị trường Đài Loan vào ngày 11 tháng 12 năm 2015.[185] Bao gồm 16 bài hát đã được phát hành trước đó, Smash Hits – phân phối bởi Warner Music Taiwan – đã dẫn đầu bảng xếp hạng album K-pop của cửa hàng âm nhạc trực tuyến hàng đầu Đài Loan KKBOX trong tuần đầu tiên phát hành.[186] Buổi hòa nhạc của IU vào ngày 10 tháng 1 năm 2016 tại Đài Loan cũng đã cháy vé trong vòng hai phút sau khi mở bán.[187] Vào cuối năm 2015, IU cùng Shin Dong-yup trở thành MC chương trình âm nhạc cuối năm thường niên Gayo Daejeon của SBS. Khi được hỏi về lý do lựa chọn IU làm người dẫn chương trình, các nhà sản xuất cho biết "tài năng âm nhạc của IU đã được công nhận, vượt ra khỏi hình ảnh 'cô em gái quốc dân dễ thương'."[188] Với những thành tích đạt được trong năm 2015, Ize đã liệt kê IU là một trong những "Nhân vật của năm", trong khi GQ Korea vinh danh cô là "Người phụ nữ của năm".[189][190]

Tháng 9 năm 2016, IU trở thành nữ chính trong phim truyền hình Người tình ánh trăng - Bộ bộ kinh tâm: Lệ, được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết Bộ Bộ Kinh Tâm của nhà văn Trung Quốc Đồng Hoa.[191][192]

2017–2018: Palette, A Flower Bookmark 2Ông chú của tôi

[sửa | sửa mã nguồn]
IU trình diễn trong buổi hòa nhạc Palette của cô tại Seoul, Hàn Quốc, diễn ra vào ngày 10 tháng 12 năm 2017

Vào ngày 21 tháng 4 năm 2017, IU xuất bản album phòng thu thứ tư mang tên Palette do cô viết lời chính và điều hành sản xuất.[193][194] Ba đĩa đơn được phát hành trước khi album ra mắt. Đĩa đơn chủ đề cùng tên[195] và hai ca khúc phát hành trước là "Through the Night" và "Can't Love You Anymore" có sự góp mặt của G-Dragon từ Big Bang.[196][197] Palette đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Albums (lần đầu tiên dành cho một ca sĩ)[198] và bảng xếp hạng quê nhà về cả lượng album bán ra và tải xuống.[199] Billboard đặc biệt khen ngợi khả năng kiểm soát sáng tạo của IU trong album lần này, cho rằng nó khiến người nghe tìm hiểu thêm về cô ấy, qua đó giúp cô gặt hái thành công lớn hơn tại cả Hàn Quốc lẫn thị trường quốc tế.[194] Palette gặt hái thành công về thương mại với cả ba đĩa đơn lần lượt chiếm giữ các vị trí cao nhất của Gaon Digital Chart.[200][201][202] Đĩa đơn chủ đề "Palette" đứng ở vị trí số 1 trong hai tuần liền. Tuy nhiên, ca khúc phát hành trước "Through the Night" mới là ca khúc bán chạy nhất của album và cũng là đĩa đơn bán chạy nhất năm 2017 của cô.[203]

Palette được giới phê bình đánh giá cao và thu về nhiều giải thưởng, bao gồm "Album nhạc pop xuất sắc nhất" tại Lễ trao giải âm nhạc Hàn Quốc lần thứ 15,[204] "Album của năm" tại Giải thưởng âm nhạc Melon,[205] và "Bản thu âm của năm (Album)" tại lễ trao giải Seoul Music Awards lần thứ 27.[206] Bản thân IU cũng được trao giải Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất tại Mnet Asian Music Awards.[207] Album cũng mang về cho IU giải "Nhạc sĩ xuất sắc nhất" tại Melon Music Awards,[205] giải "Ca sĩ của năm" tại Gaon Chart Music Awards lần thứ 7 và giải "Nhà sản xuất của năm" cho cả cô lẫn nhóm sản xuất.[208] Bên cạnh đó, IU cũng nhận được giải "Bài hát của năm" tại Lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 32 cho ca khúc hit "Through the Night".[209] Tạp chí Billboard xếp "Palette" ở vị trí thứ sáu trong danh sách Những ca khúc K-Pop hay nhất năm 2017, "giai điệu [ca khúc] mang đến một thế giới của sự tự châm biếm đầy biến động, hiệu ứng âm thanh đặc trưng và sự hồi tưởng lại về thời đại đã qua".[210] Tạp chí New York Times cũng đưa "Palette" vào danh sách "25 Songs That Tell Us Where Music Is Going", khiến IU trở thành nghệ sĩ châu Á duy nhất lọt vào danh sách này. Tạp chí đồng thời đánh giá cao khả năng "trù hoạch tính chân thực của K-pop" của IU dưới tư cách là một ca sĩ kiêm nhạc sĩ.[211] Ngoài ra, Billboard đánh giá Palette là album K-pop hay nhất năm 2017, cho rằng rằng "một album ấn tượng và đa dạng như Palette chứng minh tại sao việc một nghệ sĩ đưa trải nghiệm cá nhân vào âm nhạc có thể tạo nên tác phẩm vĩ đại nhất của họ."[212] Trong khoảng thời gian quảng bá Palette, IU tham gia chương trình thực tế Hyori's Homestay được phát sóng hàng tuần vào ngày Chủ Nhật trên đài JTBC.[213]

Vào ngày 22 tháng 9 năm 2017, IU đã phát hành album cover thứ hai mang tên A Flower Bookmark 2, chứa các bản cover của các bài hát được phát hành từ thập niên 1960 đến đầu thập niên 2000 với sự kết hợp của nhiều thể loại như dân gian, retro, balladnu-disco.[214][215] Trước khi album ra mắt, IU bất ngờ phát hành một đĩa đơn mang tên "Autumn Morning" vào ngày 18 tháng 9 để đánh dấu kỷ niệm 9 năm làm ca sĩ của cô.[216][217] Ca khúc nhanh chóng dẫn đầu cả bảy bảng xếp hạng âm nhạc địa phương sau khi được phát hành.[218] Album ban đầu được dự định sẽ bao gồm ca khúc "With the Heart to Forget You" của Kim Kwang-seok, tuy nhiên, vì những sự kiện xoay quanh gia đình của nam ca sĩ trong thời gian đó nên đội ngũ sản xuất quyết định loại bỏ ca khúc.[219] Để quảng bá album mới, IU sau đó đã tổ chức lưu diễn ở nhiều thành phố khác nhau trên toàn Hàn Quốc cũng như Hồng Kông từ tháng 11 đến tháng 12 năm 2017.[220] Cô xuất hiện trong bài hát chủ đề, "Love Story", trong album thứ chín mang tên We've Done Something Wonderful của Epik High phát hành vào ngày 23 tháng 10 năm 2017. Bài hát giành được "Perfect All-Kill", dẫn đầu bảng xếp hạng hàng ngày và bảng xếp hạng thời gian thực của cả 6 trang âm nhạc lớn tại Hàn Quốc.[221] Gallup Korea đánh giá IU là Nghệ sĩ K-pop nổi tiếng nhất năm 2017 (cô đã từng nắm giữ vị trí này trong bảng xếp hạng năm 2014) cũng như Thần tượng K-pop nổi tiếng nhất năm đó.[14][222]

Trong năm 2018, IU đã viết lời cho ca khúc "The Snowman" được trình bày bởi ca sĩ Jung Seung Hwan, và sự hợp tác vui vẻ và hòa hợp của hai nghệ sĩ còn được tiếp diễn trong tương lai vào năm 2021. Tháng 3 năm 2018, IU thủ vai Lee Ji-an trong bộ phim Ông chú của tôi của tvN.[223] Với những thành công về mặt thương mại và tỷ suất người xem cao nhất là 7,3%, Ông chú của tôi đã trở thành một trong những bộ phim truyền hình Hàn Quốc sở hữu tỷ suất người xem cao nhất trong lịch sử truyền hình cáp nước này. Đối với vai diễn của mình, IU đã nhận được những đánh giá tích cực về khả năng diễn xuất.[224] IU sau đó đã góp giọng trong "Soulmate" của Zico, phát hành ngày 23 tháng 7 năm 2018.[225] Đĩa đơn nhanh chóng dẫn đầu bảng xếp hạng hàng hàng ngày và thời gian thực của cả 6 trang âm nhạc lớn tại Hàn Quốc, đồng thời chiếm lĩnh vị trí số một trên Gaon Digital Chart.[226]

Nhằm kỷ niệm 10 năm ra mắt, IU phát hành đĩa đơn cùng video âm nhạc mang tên "Bbibbi" vào ngày 10 tháng 10 năm 2018.[227] Ngày hôm sau, Kakao M xác nhận rằng số lượt nghe trên trang web âm nhạc lớn nhất Hàn Quốc Melon của "Bbibbi" đã vượt qua một triệu chỉ sau 16 giờ phát hành. Với 1.462.625 lượt nghe sau 24 giờ phát hành, "Bbibbi" đã phá vỡ kỷ lục trước đó do ca khúc song ca "Leon" của chính IU và Park Myung-su thiết lập vào năm 2015.[228] Đĩa đơn chiếm giữ vị trí số một trên Gaon Digital Chart và đạt vị trí thứ năm trên World Digital Songs Chart của Billboard.[229][230] Tạp chí Billboard xếp "Bbibbi" ở vị trí thứ 87 trong danh sách "Những bài hát hay nhất năm 2018", giải thích rằng nó "không chỉ bình luận về những trải nghiệm của IU trong cuộc sống công chúng, mà còn là một bài ca truyền sức mạnh mang tính toàn cầu, biết và thừa nhận quyền cá nhân và giá trị của mỗi con người."[231] Đĩa đơn đồng thời về đích ở vị trí thứ 4 trong danh sách "20 ca khúc K-pop hay nhất năm 2018" của Billboard.[232] IU bắt đầu chuyến lưu diễn châu Á đầu tiên của mình, IU 10 Anniversary Tour Concert, vào ngày 28 tháng 10 năm 2018.[233] Hai tháng sau, IU góp giọng trong ca khúc "Fairytale" của Kim Dong-ryul, đạt vị trí thứ 4 trên Gaon Digital Chart.[234]

2019–2021: Persona, Khách sạn ánh trăng, Love Poem, LilacPieces

[sửa | sửa mã nguồn]
IU biểu diễn tại Jeju vào ngày 5 tháng 1 năm 2019.

Vào ngày 11 tháng 4 năm 2019, IU ra mắt bộ phim đầu tay nằm trong loạt phim tuyển tập Persona của Netflix.[235] Cô thể hiện nhiều nhân vật khác nhau trong mỗi bộ phim trong số bốn phim ngắn được viết kịch bản và đạo diễn bởi các đạo diễn nổi tiếng Lee Kyoung-mi, Yim Pil-sung, Jeon Go-woonKim Jong-kwan.[236][237] Đây là chương trình phổ biến thứ sáu trên Netflix ở Hàn Quốc vào năm 2019.[238]

Trong mùa hè, IU đóng vai chính trong bộ phim truyền hình kỳ bí giả tưởng Khách sạn ánh trăng, do Hong Sisters viết kịch bản. Cô cũng thể hiện một trong những bài hát trong nhạc phim, "Happy Ending".[239] Bộ phim thành công về mặt thương mại, ghi nhận xếp hạng cao nhất trong khung thời gian trình chiếu của nó.[240]

IU chuẩn bị phát hành EP thứ chín của cô, Love Poem, vào ngày 1 tháng 11. Tuy nhiên, cô đã quyết định hoãn việc phát hành EP đến ngày 18 tháng 11 sau cái chết của Sulli.[241][242] Đĩa đơn chính cùng tên được phát hành theo đúng kế hoạch và nhanh chóng đạt được chứng nhận all-kill.[243][244] Đĩa đơn đạt vị trí số một trên Gaon Digital Chart, và vị trí thứ chín trên World Digital Songs Chart của Billboard.[245][246] Vào ngày 2 tháng 11 năm 2019, IU bắt đầu chuyến lưu diễn châu Á thứ hai, Love Poem, tại Gwangju.[247] Gần 90.000 người hâm mộ đã tham dự chuyến lưu diễn kéo dài hai tháng của cô, trong đó cô đã đến thăm 10 thành phố.[248] Vào ngày 25 tháng 11, Billboard đã công bố danh sách "100 bài hát K-pop hay nhất trong những năm 2010", với đĩa đơn nằm trong album Real của IU "Good Day" được xếp ở vị trí số một.[2]

Lần đầu tiên sau chín năm, IU tham gia vào một album nhạc phim với bài hát "Give You My Heart" cho bộ phim hài lãng mạn ăn khách Hạ cánh nơi anh.[249] Được phát hành vào ngày 15 tháng 2 năm 2020, nó đã đứng đầu các bảng xếp hạng âm nhạc Melon, Genie, Bugs và Soribada chưa đầy ba giờ sau khi phát hành.[250] Bài hát ra mắt ở vị trí thứ 71 trên Gaon Digitai Chart của Hàn Quốc từ ngày 9-15 tháng 2 năm 2020,[251] vươn lên và đạt vị trí số một vào tuần tiếp theo.[252]

Vào ngày 6 tháng 5 năm 2020, IU phát hành đĩa đơn "Eight" hợp tác với Suga của BTS.[253] Nó tiếp nối các đĩa đơn trước đó của IU "Twenty-Three" (2015) và "Palette" (2017), cùng nhau tạo nên chuỗi câu chuyện "tuổi mới lớn" của riêng cô.[254] Tên bài hát bắt nguồn từ chữ số cuối cùng của tuổi Hàn "hai mươi tám" của cả hai ca sĩ.[255] Vào ngày 19 tháng 6 năm 2020, IU phát hành bài hát "Into the I-LAND" làm ca khúc chủ đề cho chương trình thực tế sống còn I-Land của Mnet.[256]

Vào ngày 9 tháng 1 năm 2021, cô đã giành được giải thưởng "Giải Daesang cho Bài hát của năm" tại lễ trao giải Golden Disc Awards lần thứ 35 với bài hát "Blueming".[257] Trong khi lên sân khấu nhận giải, cô ám chỉ rằng sẽ sớm trở lại với một đĩa đơn mới mang tên "Celebrity", một bài hát mang âm hưởng pop sảng khoái, tươi vui và tràn đầy năng lượng.[258] Hai ngày sau, công ty quản lý Edam Entertainment của cô xác nhận rằng cô sẽ trở lại với đĩa đơn phát hành trước "Celebrity" vào ngày 27 tháng 1 năm 2021.[259] Vào ngày 3 tháng 3, IU công bố album phòng thu thứ năm của mình, Lilac, sẽ được phát hành vào ngày 25 tháng 3.[260] Album đạt được thành công thương mại ngay tại thời điểm ra mắt: nó đứng đầu Gaon Album Chart và tất cả các bài hát nằm trong album đều lọt vào top 30 của Gaon Digital Chart. Đĩa đơn thứ hai cùng tên còn đứng đầu bảng xếp hạng album iTunes ở 11 quốc gia.[261]

IU thông báo đĩa đơn kỹ thuật số của mình, "Strawberry Moon", sẽ được phát hành vào ngày 19 tháng 10.[262] Vào tháng 12 năm 2021, IU đã giới thiệu một album đặc biệt mang tên Pieces, được phát hành vào ngày 29 tháng 12.[263]

2022–nay: Người môi giớiThe Winning

[sửa | sửa mã nguồn]
IU trong một đêm diễn của cô vào tháng 9 năm 2023.

Năm 2022, IU hợp tác với Jay Park qua ca khúc "Gadanara", giúp cho ca khúc đứng đầu vị trí trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart và K-pop Hot 100 của Billboard.[264][265][266] Bộ phim tài liệu của cô mang tên Pieces:29th Winter, được ra mắt vào ngày 23 tháng 3 cùng năm sau một tuần bị tạm hoãn để đảm bảo về chất lượng.[267]

Cũng trong năm này, IU góp mặt trong bộ phim tranh tài giải Cành cọ vàng mang tên Người môi giới của đạo diễn Hirokazu Kore-eda, với vai diễn Moon So-young, một người mẹ trẻ đơn thân đang tìm kiếm ngôi nhà và gia đình mới cho đứa con của mình.[268][269] Với màn trình diễn ấn tượng, cô đã được nhận về những lời tán dương từ giới chuyên môn và nhận được nhiều đề cử ở hạng mục Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất tại các giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh, châu Á, Builgiải thưởng nghệ thuật Baeksang.[270][271] Ngày 17 và 18 tháng 9 năm 2022, chuyến lưu diễn thứ tám của IU mang tên The Golden Hour: Under the Orange Sun được diễn ra tại sân vận động Olympic Seoul, qua đó giúp cô trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên trình diễn tại địa điểm này.[272]

Năm 2023, cô tham gia diễn xuất trong bộ phim Dream cùng với Park Seo-joon.[273] Cũng trong năm này, cô hợp tác với Suga để thể hiện ca khúc "People Pt. 2". Ca khúc được ra mắt vào ngày 7 tháng 4 dưới tư cách là một đĩa đơn nằm trong album đầu tay của Suga mang tên D-Day.[274]

Ngày 24 tháng 1 năm 2024, IU cho ra mắt ca khúc "Love Wins All",[275] sau này được nằm trong mini-album thứ sáu của cô mang tên The Winning, ra mắt vào ngày 20 tháng 2 cùng năm.[276] Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2024, cô bắt đầu thực hiện chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên trong sự nghiệp của mình mang tên IU HEREH World Tour, theo đó cô tham gia trình diễn trong 31 buổi diễn tại các nước ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ.[277]

Giải thưởng và thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ khi ra mắt vào năm 2008, IU đã nhận được hơn 200 đề cử, trong số đó có hơn 100 lần chiến thắng. Cô đã giành được 18 giải Melon Music Awards, 12 Gaon Chart Music Awards, 5 Korean Music Awards, 11 Mnet Asian Music Awards, 5 Seoul Music Awards và 5 Golden Disc Awards. Nữ ca sĩ cũng đã giành được một số giải thưởng với tư cách là một diễn viên, giành được danh hiệu "Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất" tại Lễ trao giải phim truyền hình KBS 2014 cho màn thể hiện xuất sắc của cô trong You're the Best, Lee Soon-shin.[278]

IU nhận được mười giải Daesang, còn được gọi là giải thưởng lớn, tại nhiều lễ trao giải khác nhau. Bao gồm năm giải Daesang từ Melon Music Awards và ba từ Golden Disk Awards. Daesang là giải thưởng quan trọng nhất được trao trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc. Năm 2012, IU được xếp vào danh sách người nổi tiếng quyền lực của Forbes Hàn Quốc, kể từ đó cô đã 5 lần được xứng danh. Ngoài ra, IU đã được vinh danh tại Lễ trao giải Văn hóa & Nghệ thuật Pop 2015, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc tổ chức, vì tầm ảnh hưởng và thành công của cô trong ngành công nghiệp âm nhạc.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Những bộ phim đã đóng

Các buổi hòa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên chuyến lưu diễn Khu vực Số show Nguồn
2012 IU Nhật Bản Premium Special Live Nhật Bản 2 [86]
IU Friendship Showcase - Spring 2012 Nhật Bản 5 [91]
Real Fantasy Hàn Quốc 13 [94]
IU Friendship Special Concert - Autumn 2012 Nhật Bản 1 [100]
2013 Modern Times Hàn Quốc 3 [131]
2014 Modern Times Showcase In Hong Kong Hong Kong 1 [132]
Just One Step... That Much More Hàn Quốc 8 [279]
2015 Chat-Shire Hàn Quốc 7 [183]
2015–2016 I&U Hong Kong 1 [280]
Trung Quốc 2 [281][282]
Đài Loan 1 [283]
2016 IU Good Day Trung Quốc Tour Trung Quốc 7 [284]
24 Steps: One, Two, Three, Four Hàn Quốc 2 [285]
IU Concert 24 Steps In Hong Kong Hong Kong 1 [286]
2017 IU Concert 24 Steps In Taipei Đài Loan 1 [287]
IU 2017 Tour Concert〈Palette〉 Hàn Quốc 5 [288]
Hong Kong 1
2018–2019 2018 IU 10th Anniversary Tour Concert 〈이지금 dlwlrma〉
Lịch trình
Hàn Quốc 5 [289]
Hong Kong 1
Singapore 1
Thái Lan 1
Đài Loan 2
2019 2019 IU Tour Concert 〈Love, Poem〉
Lịch trình
Hàn Quốc 6 [290][291]
Đài Loan 2
Singapore 2
Philippines 1
Malaysia 1
Thái Lan 1
Indonesia 2
2022 The Golden Hour: Under the Orange Sun Hàn Quốc 2
  1. ^ Uptempo là loại nhạc dành cho các câu lạc bộ, mang tính chất sôi động.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “[S톡] 이지은, '두드리면 그러면 열릴 것이다' ::”. www.stardailynews.co.kr (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b Billboard Staff (ngày 25 tháng 11 năm 2019). “The 100 Greatest K-Pop Songs of the 2010s: Staff List”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  3. ^ a b c Benjamin, Jeff (17 tháng 9 năm 2012). “IU: 21 Under 21 (2012)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  4. ^ a b c Oak, Jessica (9 tháng 10 năm 2013). “IU Exudes Maturity on New LP 'Modern Times'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  5. ^ “The 25 Greatest K-Pop Albums of the 2010s: Staff List”. Billboard. 17 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2019.
  6. ^ a b Benjamin, Jeff (26 tháng 10 năm 2015). “IU Details the Toils of Being 'Twenty-Three' in Most Personal Single Yet”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  7. ^ Sohn, Ji-young (16 tháng 5 năm 2014). “IU sweeps charts with covers album”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  8. ^ “IU tops eight domestic charts with new song "Twenty-Three". The Korea Times. South Korea. 23 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ Benjamin, Jeff (18 tháng 5 năm 2017). “IU's 'Palette' Proves the Power of Personal K-Pop”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2022.
  10. ^ a b Zellner, Xander (13 tháng 5 năm 2020). “K-Pop Star IU Debuts on Emerging Artists Chart, Thanks to SUGA Collab 'Eight'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2022.
  11. ^ Faughnder, Ryan (ngày 24 tháng 8 năm 2015). “Korean pop fans get intimate with the music at KCON”. Los Angeles Times. Los Angeles. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  12. ^ Các nguồn tham khảo về Người nổi tiếng Quyền lực Hàn Quốc của tạp chí Forbes:
  13. ^ a b c Benjamin, Jeff (ngày 5 tháng 5 năm 2014). “IU Earns Fifth K-Pop Hot 100 No. 1, Becomes All-Time Chart Leader”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  14. ^ a b 2017년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 11년간 추이, 아이돌 선호도 포함 [2017, Outstanding Singer and Songs This Year – Including Trends and Idol Preferences For The Last 10 Years] (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. ngày 19 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2021.
  15. ^ “아이유” [IU]. Naver. ngày 18 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  16. ^ Kim, Shin-young (ngày 15 tháng 10 năm 2012). 10/15 화: Live On Air - with 아이유 [Tuesday 10/15: Live On Air - with IU] (Radio broadcast) (bằng tiếng Hàn). Munhwa Broadcasting Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  17. ^ a b “(Daum 독점) IU 스타인터뷰 전격 공개 (30)” [(Daum Special) IU Star Interview (30)]. Daum (bằng tiếng Hàn). ngày 15 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  18. ^ Kim, Seung-woo; Kim, Su-geun; Lee, Ki-kwang; Tak, Jae-hoon (ngày 5 tháng 5 năm 2011). “Episode 93”. Win Win. KBS2.
  19. ^ 아이유 '어머니 빚보증 잘못서... 바퀴벌레 우글거리는 단칸방 생활' [IU 'Mother made a bad business decision... we lived in a single room with roaches']. Newsen (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. ngày 14 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  20. ^ a b c Sunwoo, Carla (ngày 13 tháng 12 năm 2011). “K-pop star opens up about childhood”. Korea JoongAng Daily. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  21. ^ Shin, Eun-kyung (ngày 29 tháng 2 năm 2012). “[Cover Story] 31호 아이유” [[Cover Story] No. 31: IU]. The Big Issue Korea (bằng tiếng Hàn). South Korea. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  22. ^ Kim Ji-young (ngày 5 tháng 1 năm 2016). “Four Korean stars who got scammed”. K-Pop Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  23. ^ “You are the Best!”. Happy Together. Mùa 3. Tập 297 (bằng tiếng Hàn). ngày 22 tháng 5 năm 2013. KBS World. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  24. ^ “16세 소녀가수 아이유 "god 김태우 오빠, 기다려!" [16-year-old girl singer IU "g.o.d. Kim Tae Woo oppa, wait!"]. Korea JoongAng Daily (bằng tiếng Hàn). Seoul. ngày 5 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  25. ^ a b c “Teenage Singer IU Is Open to Surprises”. The Chosun Ilbo. Seoul. ngày 22 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ a b Lee, Kyung-ran (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “Singer IU wins fans by going her own way”. Korea JoongAng Daily. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ Sunwoo, Carla (ngày 11 tháng 2 năm 2012). “IU graduates from high school”. Korea JoongAng Daily. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ a b c Do, Je-hae (25 tháng 1 năm 2012). “IU performs solo in Japan”. The Korea Times. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  29. ^ “아이유 욕설 신고식 '이 돼지같은 게' 야유 비난 속 노래” [IU's abusive debut - booed during song: "You Pig!"]. The Korea Herald. Seoul. 28 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  30. ^ “아이유(IU), 'Lost and Found' 로 우수 신인음반 선정!” [IU: Excellent newcomer with selected album 'Lost and Found'!]. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. 31 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  31. ^ 'Boo' 아이유, 소시-카라 잇는 큐티 아이돌 스타탄생 예감”. Newsen (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. 20 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  32. ^ a b Lee, Seung-han (11 tháng 10 năm 2013). 21살 아이유 원숙미는 곤란해. The Hankyoreh (bằng tiếng Hàn). Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  33. ^ “아이유 깜찍발랄 'Boo' 컴백 신고식 '슬픈 이미지 벗어던졌다' [IU's cute and youthful 'Boo' comeback debut]. Newsen (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. 18 tháng 4 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  34. ^ a b Lee, Young-hwa (7 tháng 5 năm 2009). “[HD동영상] 아이유(IU), '국민가수요? 무대서 댄스 적응하기도 힘들어'. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  35. ^ “Side B: The Hidden Depths of IU”. Seoul Beats. 15 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  36. ^ Yoo, Jae-suk; Park, Myeong-su; Shin, Bong-sun; Park, Mi-sun (18 tháng 10 năm 2013). “Overnight Celebrity Special”. Happy Together. KBS2.
  37. ^ 아이유 '마쉬멜로우' 컴백, 깜찍 퍼포먼스 업그레이드. Newsen (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. 15 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  38. ^ [동영상] 소녀디바 아이유, 빅뱅의 '거짓말' 어쿠스틱버전 불러 화제!. The Chosum Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. 13 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  39. ^ Hwang, Ui-kyung (28 tháng 8 năm 2009). “아이유, 곰TV 뮤직차트 쇼 VJ 변신” [IU transforms into Gom TV Music Chart VJ]. Munhwa Broadcasting Corporation (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  40. ^ 아이유 '마쉬멜로우' 컴백, 깜찍 퍼포먼스 업그레이드. Newsen (bằng tiếng Hàn). Daum. 15 tháng 8 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng hai năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  41. ^ “가수 아이유,태연이어 MBC FM '친한 친구' DJ로” [Singer IU to be a casual MBC FM "Chin Chin Radio" DJ]. Daily Finance (bằng tiếng Hàn). 20 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2020.
  42. ^ Tham chiếu thứ hạng Bảng xếp hạng nhạc số Gaon của "Nagging":
  43. ^ “싱글: 잔소리” [Single: Nagging]. Melon. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  44. ^ “IU artist profile”. KBS World Radio. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  45. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2010 Week 31”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  46. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2010 Week 41”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  47. ^ “IU迷你专辑公开 主打歌《好日子》音源爆发” (bằng tiếng Trung). NetEase. 9 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  48. ^ “South Korean Gaon Album Chart 2010 Week 52”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015.
  49. ^ Park, Jung-ho (8 tháng 4 năm 2015). “Lyricist gives insight into world of K-pop”. Korea JoongAng Daily. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  50. ^ “Episode 221”. M! Countdown. 23 tháng 12 năm 2010. Mnet.
  51. ^ “Episode 585”. Music Bank. 24 tháng 12 năm 2010. KBS2.
  52. ^ “Episode 602”. Inkigayo. 26 tháng 12 năm 2010. Seoul Broadcasting System.
  53. ^ Eun, Joo-chung (11 tháng 8 năm 2011). 아이유 히트송 만든 그 남자 작곡, 그 여자 작사. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  54. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên yonhap-20101229
  55. ^ a b c Kim, Ji-young (22 tháng 3 năm 2011). '삼촌'팬 몰고 다니는 국민 여동생 아이유 ['Uncle' fans attending in droves for the Nation's Little Sister, IU]. The Dong-a Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  56. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên seoulshinmun-20110110
  57. ^ 아이유, 영웅호걸에 무한애정 보여줘 [IU shows endless love for Heroes]. SBS Weekly Focus (bằng tiếng Hàn). Seoul Broadcasting System. 15 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  58. ^ Kim, Seong-han (15 tháng 1 năm 2011). (스타 인터뷰) 아이유 '연기? 새롭고 신기해요... 재미있어요' [(Star interview) IU: 'Acting? It's new, amazing and fun...']. Sports Korea (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  59. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2011 Week 7”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  60. ^ a b “South Korean Gaon Download Chart 2011”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ 2 Tháng tư năm 2015. Truy cập 8 Tháng mười một năm 2015.
  61. ^ 아이유, '나만 몰랐던 이야기' 벌써부터 히트예감 [IU is already feeling the heat from 'Only I Didn't Know']. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. 16 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  62. ^ 윤상, 아이유 '나만 몰랐던 이야기' 준 것 후회 "고등학생에 너무 슬픈곡" [IU's 'Only I Didn't Know': Yoon Sang regrets, "The song is too sad for a high schooler."]. Newsen (bằng tiếng Hàn). 27 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  63. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2011 Week 9”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  64. ^ Kim, Yoon-mi (11 tháng 3 năm 2011). “Singer Corinne Bailey Rae's soulful voice wows Koreans”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  65. ^ Min, Ines (7 tháng 2 năm 2011). “IU to perform at Bailey Rae's concert in Korea”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  66. ^ Kwon, Soo-bin (28 tháng 7 năm 2013). “아이유 막방소감 '엠씨가요 가장 기억남는 실수' 인기가요 MC 하차”. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  67. ^ “케이윌(K.will) '가슴이 뛴다(My heart beating)' MV with 아이유(IU), 이준(Mblaq Joon)”. Starship Entertainment Music Videos. Starship Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  68. ^ “케이윌(K.will)'입이 떨어지지 않아서(Can't open up my lips) M.V 아이유, 이준, 민우”. Starship Entertainment Music Videos. Starship Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  69. ^ “아이유, '최고의 사랑' OST 참여” [IU participates in 'The Greatest Love' OST]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). 24 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  70. ^ a b (창간26주년) 아이유, 스마트 스타의 대표주자 [(26th Anniversary) IU: Representative of a smart star] (bằng tiếng Hàn). Sports Seoul. 21 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 23 Tháng sáu năm 2011. Truy cập 29 Tháng mười một năm 2015.
  71. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2011 Week 24”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  72. ^ Kim, Pyo-hyang (30 tháng 5 năm 2011). '키스앤크라이' 아이유, 하루 5시간 맹연습으로 명예회복 노린다 [IU trains 5 hours per day to restore honor on 'Kiss and Cry']. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  73. ^ Kim, Won-kyum (12 tháng 7 năm 2011). 여고생 아이유 열공! [High-school girl IU studies hard!]. The Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  74. ^ “KBS 불후의 명곡 2 (전설을 노래하다) 제작발표회 개최” [Press conference held for KBS' 'Immortal Songs: Singing the Legend'] (bằng tiếng Hàn). Korean Broadcasting System. 9 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  75. ^ Han, Hyeon-jeong (7 tháng 6 năm 2011). 아이유 측 "'불후2' 돌연 하차? 사전 협의한 건데... 후회없다". MK News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  76. ^ Jang, Yeon-ju (18 tháng 11 năm 2011). “아이유, 정규 2집 'Last Fantasy' 1만5000장 한정판...예약 판매”. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  77. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên billboard-20151103
  78. ^ “IU releases second album 'Last Fantasy'. Korea JoongAng Daily. Seoul. 29 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  79. ^ Lee, Jung-hyuk (15 tháng 12 năm 2011). 아이유 정규 2집, 발매 2주 만에 1000만 다운로드 돌파. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  80. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2011 Week 50”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  81. ^ a b “South Korean Gaon Album Chart 2011 Week 50”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  82. ^ Tham chiếu Annual Gaon Download Chart của "You and I":
  83. ^ a b Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (30 tháng 12 năm 2013). “K-Pop Hot 100: IU Hits No. 1 With 'Friday,' Ties Chart Record”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  84. ^ “Teen Singer IU Ready for Japan Debut”. The Chosun Ilbo. 17 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  85. ^ “韓国の"国民の妹"IU、来春日本デビュー決定” [The "Nation's Little Sister" of South Korea, IU, to debut in Japan next spring] (bằng tiếng Nhật). Oricon. 16 tháng 11 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  86. ^ a b “IU JAPAN PREMIUM "SPECIAL LIVE" @ 渋谷Bunkamura オーチャードホール (2012年1月24日 17:00)” [IU Japan Premium "Special" Live @ Shibuya Bunkamura Orchard Hall (ngày 24 tháng 1 năm 2012 17:00)]. Tower Records (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 2 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  87. ^ 장근석·아이유 등 오리콘차트 상위권 올라(종합)왕 [Jang Geun-suk, IU etc. topping the Oricon chart]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  88. ^ “Japan Hot 100 (Week of April 7, 2012)”. Japan Hot 100. Billboard. 7 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  89. ^ Ho, Stewart (19 tháng 7 năm 2012). “IU's 'You and I' Makes a 4th Place Debut on Oricon Daily Singles Chart”. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2015.
  90. ^ “Japan Hot 100 (Week of August 4, 2012)”. Japan Hot 100. Billboard. 4 tháng 8 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2015.
  91. ^ a b 아이유, 9월 日 단독 콘서트... 6개월만의 '성과' [IU's solo concert in September, 6 months after 'performance']. OSEN (bằng tiếng Hàn). Seoul Broadcasting System. 25 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  92. ^ Sunwoo, Carla (19 tháng 4 năm 2012). “IU's concert a sellout in half-hour”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ a b Sunwoo, Carla (3 tháng 5 năm 2012). “IU ticket sales snapped up by 'Uncle Fans'. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  94. ^ a b Sunwoo, Carla (25 tháng 9 năm 2012). “IU wraps up concert with a vow to be better TV host”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  95. ^ “2012.06.13 - 아이유의 첫 단독 콘서트. 3시간 동안 펼쳐진 동화속 여행 속으로...” [2012.06.13 - IU's first solo concert: A fairy-tale journey that unfolded in 3 hours]. Melon (bằng tiếng Hàn). 13 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  96. ^ a b “Special: 봄과 함께 팬들 곁으로 돌아온 아이유” [Special: IU returning to the fans' side with Spring]. Naver Music (bằng tiếng Hàn). Naver. 11 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  97. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2012 Week 20”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  98. ^ “Korea K-Pop Hot 100 (Week of May 19, 2012)”. Korea K-pop Hot 100. Billboard. 19 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  99. ^ Gaon Digital Chart references for "Every End of the Day":
  100. ^ a b “K-POP期待の19歳が安全地帯カバー 「本当に綺麗な音楽」” [19-year-old K-pop's hope covers Anzen Chitai: Really beautiful music]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2015.
  101. ^ “IU Friendship Special Concert ~Autumn 2012~ @ 東京国際フォーラムホールA” [IU Friendship Special Concert Autumn 2012 at Tokyo International Forum Hall A]. Tower Records (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2015.
  102. ^ '휴식 끝' 아이유, 3개월 만에 '인기가요' MC로 컴백” [IU's break ends, returning to 'Inkigayo' as MC after 3 months]. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). 22 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2015.
  103. ^ '최강연승 퀴즈쇼Q', 시청률 5.1% '씁쓸한 퇴장' [Bittersweet ending for 'Quiz Show Q': 5.1% rating]. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). 29 tháng 12 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2015.
  104. ^ “아이유·수지·정겨운, SBS '가요대전' MC로 호흡” [IU, Suzy and Jung Gyu-woon selected as SBS Gayo Daejeon's MCs]. No Cut News (bằng tiếng Hàn). 26 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  105. ^ [포토엔]서울가요대상 아이유 '수줍은 시스루룩 패션'(서울가요대상) [Seoul Music Awards: IU's shy see-through fashion]. Newsen (bằng tiếng Hàn). 20 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  106. ^ Kim, Min-jung (ngày 29 tháng 2 năm 2012). '장기하와 얼굴들' 한국대중음악상 4관왕 [Jang Ki-ha and the Faces' 4 wins at Korea's pop awards]. The Dong-a Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2015.
  107. ^ Yang, Jin-young (5 tháng 3 năm 2013). '최고다 이순신' 아이유 첫 주연 소감 "안예쁜 이순신, 자신있다" ['You're the Best, Lee Soon Shin' IU's first starring role comment: "Lee Soon Shin isn't pretty, I am confident."]. Newspim (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  108. ^ Lee, Ji-suk (4 tháng 3 năm 2013). “"'최고다 이순신' PD "아이유 캐스팅? 1회 끝나면 우려 없어진다" ['You're the Best, Lee Soon Shin' PD: "IU's casting? The first episode will eliminate everyone's concerns."]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  109. ^ Lee, Ji-suk (4 tháng 3 năm 2013). '최고다 이순신' 고두심 "아이유 부담없는 외모" 솔직발언 폭소 ['You're the Best, Lee Soon Shin' Go Doo Shim's hilarious candid remarks: "IU looks casual."]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  110. ^ Lee, Ji-suk (4 tháng 3 năm 2013). '최고다 이순신' 이지훈 "아이유 준비 철저히 했다" 극찬 ['You're the Best, Lee Soon Shin' Lee Ji Hoon praises: "IU prepared thoroughly."]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  111. ^ Baek, Ah-reum (24 tháng 3 năm 2013). '최고다 이순신' 기대이상 아이유 눈물연기 관계자도 놀랐다 [IU's emotional acting surprises 'You're the Best, Lee Soon Shin' production crew]. Newsen (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  112. ^ “KBS 주말극 '최고다 이순신' 시청률 30.1%로 종영” [KBS Weekend Drama 'You're the Best, Lee Soon Shin' reaches 30.1% ratings]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). 26 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  113. ^ Go, Seung-hui (26 tháng 8 năm 2013). 아이유, 2013 최고의 연기돌로 거듭나다... '최고다 이순신' 통해 연기돌로 재평가. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
  114. ^ 아이유 조정석과 듀엣곡 공개, "'예쁘다송'인 이유는..." [IU and Jo Jung-suk's duet released: "The reason for 'Beautiful Song' is..."]. The Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). 26 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  115. ^ “Japan Hot 100 (Week of April 1, 2013)”. Japan Hot 100. Billboard. 1 tháng 4 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2016.
  116. ^ “Can You Hear Me?”. Rolling Stone Japan (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2016.
  117. ^ “IU 「自身が手がけた曲も! 大雑把な性格は父親ゆずり... !」”. Oricon (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2016.
  118. ^ “Japan Hot 100 on the week of September 28, 2013”. Japan Hot 100. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  119. ^ Park, Hyeon-min (12 tháng 9 năm 2013). 아이유, 일본서 신곡 발표...오리콘 차트 9위 [IU's song book published in Japan... number 9 on Oricon chart]. OSEN (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  120. ^ Jackson, Julie (25 tháng 9 năm 2013). “Upcoming K-pop releases to usher in fall season”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2016.
  121. ^ “Variety Adds Spice to IU's New Album”. The Chosun Ilbo. Seoul. 12 tháng 10 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  122. ^ a b Cha, Yo-rim (18 tháng 10 năm 2013). “IU impresses on 'Modern Times'. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  123. ^ a b “Best Of 2013 Recap: Your Favorite Albums And Mini-Albums”. Seoul Beats. 31 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  124. ^ “South Korean Gaon Album Chart 2013 Week 42”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  125. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2013 Week 42”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  126. ^ “Billboard World Albums Chart on the Week of October 26, 2013”. Billboard World Albums Chart. Billboard. 26 tháng 10 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  127. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (18 tháng 10 năm 2013). “The K-pop soloist extends her reign for most weeks at No. 1. Plus, chart highlights from Seo In Young, T-ara and more”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  128. ^ a b Oh, Jean (19 tháng 11 năm 2013). “IU's star continues to rise”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  129. ^ 장근석-아이유 '예쁜남자' 시청률 3.8%로 종영 [Jang Geun Suk and IU's 'Bel Ami' score 3.8% rating in final broadcast]. Yonhap News Agency (bằng tiếng Hàn). 10 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  130. ^ 인기투표하세요, 서울드라마어워즈 스타 - 작품 - 노래. Business Wire (bằng tiếng Hàn). JoongAng Media Network. 16 tháng 7 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  131. ^ a b Lee, Sun-min (16 tháng 10 năm 2013). “IU announces solo concerts”. JoongAng Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  132. ^ a b “Event Details: IU Modern Times Showcase In Hong Kong”. Kowloonbay International Trade & Exhibition Centre. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  133. ^ “아이유 - 금요일에 만나요 뮤직비디오 촬영 비하인드(메이킹)” [IU - "Friday" Music Video (Behind the Scenes)]. Naver. 20 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  134. ^ “Korea K-Pop Hot 100 - 2014 Archive”. Korea K-Pop Hot 100. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  135. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 1”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  136. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  137. ^ “아이유, 자작곡 '금요일에 만나요'로 공중파 음악 방송 석권”. The DongA Ilbo. Naver. 5 tháng 1 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  138. ^ Hong, Grace Danbi (14 tháng 5 năm 2014). “IU Unveils Complete Tracklist for 'Flower Bookmark'. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  139. ^ Kang, Hyung-Jun (1 tháng 7 năm 2014). “Young Samsung” 이제는 여신이 된 국민여동생, 아이유를 만나다! [Let's meet the nation's little sister, IU, who has now become a goddess!]. Samsung (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  140. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 21”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  141. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 22”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  142. ^ “South Korean Gaon Download Chart 2014”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Bản gốc lưu trữ 3 tháng Mười năm 2016. Truy cập 9 Tháng Một năm 2016.
  143. ^ Sohn, Ji-young (30 tháng 5 năm 2014). “Eyelike: IU returns with Korean classics”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  144. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (11 tháng 12 năm 2014). “The 10 Best K-Pop Albums of 2014”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  145. ^ “god·아이유·태양, 2014 멜론 뮤직 어워드 주인공” [2014 Melon Music Awards Stars: g.o.d., IU and Taeyang]. Business Wire (bằng tiếng Hàn). Seoul: The Chosun Ilbo. 14 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  146. ^ a b [스타캐스트] 아이유 '딱 한발짝... 그 만큼만 더' 준비 현장! [[Starcast] IU 'Just One Step... That Much More' concert preparation!]. Naver (bằng tiếng Hàn). 20 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  147. ^ a b Kim, Eun-gu (8 tháng 5 năm 2014). “아이유 소극장 콘서트 예매 '딱 10분 만에 끝' [IU theater concert's ticket reservation ended in 10 minutes]. E-Daily Star In. Seoul: JoongAng Media Network. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  148. ^ Lee, Jung-hyuk (2 tháng 6 năm 2014). '국민 여동생' 왕관 벗어던진 아이유의 생존 비법 [IU's "National Younger Sister" crown thrown out - survival secrets]. The Chosun Ilbo (bằng tiếng Hàn). Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  149. ^ Hong, Grace Danbi (2 tháng 5 năm 2014). “IU to Donate All Profits Made from Concert to Ferry Victims”. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  150. ^ a b Benjamin, Jeff (10 tháng 8 năm 2014). “KCON 2014 Day 1: G-Dragon, IU, B1A4 & More Rock Los Angeles”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  151. ^ Brown, August (10 tháng 8 năm 2014). “Review: G-Dragon, Teen Top and B1A4 make K-pop's next moves at KCON”. Los Angeles Times. Los Angeles. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  152. ^ Benjamin, Jeff (12 tháng 8 năm 2014). “KCON More Than Doubles Attendance in 2014”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  153. ^ Benjamin, Jeff (13 tháng 8 năm 2014). “IU Talks First US Performance, New Album & 'Modern Family' at KCON 2014: Video Interview”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2016.
  154. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 19”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
  155. ^ Sohn, Ji-young (24 tháng 6 năm 2014). “Ulala Session song featuring late Lim, IU out next week”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  156. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 28”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  157. ^ Sohn, Ji-young (8 tháng 7 năm 2014). “god makes grand return with new LP 'Chapter 8'. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  158. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 29”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  159. ^ Jackson, Julie (12 tháng 10 năm 2014). “Seo Taiji reveals personal side on TV”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  160. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 41”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  161. ^ Hong, Grace Danbi (31 tháng 10 năm 2014). “(Video) Yoon Hyun Sang Debuts with IU in 'When Would It Be' MV”. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  162. ^ “South Korean Gaon Digital Chart 2014 Week 45”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2016.
  163. ^ a b Doo, Rumy (11 tháng 5 năm 2015). 'The Producers' set to be full of fun and laughs”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  164. ^ Kwon, Ji-youn (18 tháng 5 năm 2015). 'The Producers' - great boast, small roast”. The Korea Times. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  165. ^ Kwon, Ji-youn (21 tháng 6 năm 2015). 'Producers' ends with success”. The Korea Times. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  166. ^ Hong, Grace Danbi (18 tháng 5 năm 2015). “IU Tops the Music Charts with Surprise Single Release of 'Heart'. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  167. ^ “South Korean Gaon Download Chart 2015”. Gaon Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  168. ^ “[Newsmaker] Loudspeakers mightier than the sword”. The Korea Herald. 25 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  169. ^ Choe, Sang-Hun (30 tháng 8 năm 2015). “To Jar North, South Korea Used a Pop-Music Barrage”. The New York Times. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  170. ^ Kim, Won-gyeom (17 tháng 6 năm 2015). '프로듀사' 효과...중국, 아이유 러브콜 쇄도 ['Producers' effect: Deluge of love-calls from China for IU]. The Dong-a Ilbo (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  171. ^ Kwon, Ji-youn (13 tháng 9 năm 2015). “Infinite Challenge music festival loses true nature”. The Korea Times. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  172. ^ Lee, Hye-won (16 tháng 9 năm 2015). 'Infinite Challenge' songs generate W2b in sales”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
  173. ^ “컴백! 아이유, 새 미니앨범 '챗셔' 10월 23일 발매..전곡 프로듀싱” [Comeback! IU's new mini-album 'Chat-shire' to be released on October 23... Produced songs]. The Chosun Ilbo. ngày 12 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  174. ^ “World Albums: Week of November 14, 2015”. World Albums. Billboard. 14 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  175. ^ “IU Creates A Wonderland In 'Twenty-Three'. Seoul Beats. 25 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  176. ^ “Down The Rabbit Hole With IU's Chat-Shire”. Seoul Beats. 27 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  177. ^ Sung So-young (7 tháng 11 năm 2015). “Controversy surrounds IU, again”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  178. ^ a b c Kwon, Ji-youn (11 tháng 11 năm 2015). “K-pop star IU's 'Zeze' under fire”. The Korea Times. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  179. ^ a b Sung, So-Young (ngày 12 tháng 11 năm 2015). “Publisher backs down in IU debate”. Korea JoongAng Daily. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  180. ^ Lim, Jeong-yeo; Ko, Ji-seon (6 tháng 11 năm 2015). “IU apologizes amid plagiarism, pedophilia charges”. The Korea Herald. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  181. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (30 tháng 12 năm 2015). “The 10 Best K-Pop Albums of 2015”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2016.
  182. ^ Sung, So-young (20 tháng 10 năm 2015). “IU planning to avoid TV music programs”. Korea Joongang Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  183. ^ a b Kim, Yu-jin (19 tháng 10 năm 2015). “IU to hold national concert tour 'Chat-Shire'. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  184. ^ Kim, Yu-jin (8 tháng 12 năm 2015). “IU to hold year-end encore concert”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  185. ^ Lee, Eun-ho (15 tháng 12 năm 2015). 아이유, 대만 홀렸다... 앨범 차트 1위+팬미팅 매진 [IU in Taiwan: Album chart #1 and fan-meeting sold out]. Korea Economic Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  186. ^ Hwang, Hye-jin (15 tháng 12 năm 2015). “IU Tops K-Pop Chart in Taiwan”. Newsen. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2015.
  187. ^ Hsu, Sandy; Kao, Annie (22 tháng 12 năm 2015). “就是明年1月了!終於等到「國民妹妹」IU首次訪台!門票開賣僅2分鐘即售罄” [It's next January! The wait for 'National Sister' IU's first visit to Taiwan is over! Tickets sold out in two minutes]. Vogue Taiwan (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2015.
  188. ^ Kim, Yu-jin (17 tháng 12 năm 2015). “Shin Dong-yup, IU to host SBS' 'Gayo Daejeon'. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  189. ^ Hwang, Hyo-jin; Lee, Ji-hye; Sim, Ha-lim (1 tháng 12 năm 2015). “PEOPLE 2015: ② 아이유부터 강동원까지, 올해의 인물 10” [People 2015: From IU to Kang Dong-won, 10 Persons of the Year]. Ize. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  190. ^ Jung, Woo-sung (23 tháng 11 năm 2015). “2015 WOMAN OF THE YEAR - 아이유” [2015 WOMAN OF THE YEAR - IU]. GQ Korea. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2016.
  191. ^ Lee, Yong-wook (19 tháng 3 năm 2016). 아이유-이준기 주연 한국판 '보보경심', 9월 한중 동시 방영 [Korean 'Scarlet Heart' starring IU and Lee Joon-gi to be simulcast in China in September]. MyDaily Korea (bằng tiếng Hàn). Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  192. ^ “IU to star in 'Moon Lovers' Korean remake”. Korea JoongAng Daily. ngày 5 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2021.
  193. ^ “IU says she's confident of new album 'Palette'. Yonhap News Agency. 21 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  194. ^ a b “IU's 'Palette' Proves the Power of Personal K-Pop”. Billboard. 18 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  195. ^ “IU Releases Coming-of-Age Single 'Palette,' Feat. G-Dragon”. Billboard. 21 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  196. ^ 아이유 측 "3월 24일 선공개곡 발표...4월 중 컴백 목표"(공식) (bằng tiếng Hàn). News Nate. 9 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2017.
  197. ^ 아이유, 4월 21일 4집 컴백 확정..1년 6개월만 활동 재개 (bằng tiếng Hàn). Naver. 17 tháng 3 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2017.
  198. ^ “IU Earns First No. 1 on World Albums Chart With 'Palette'. Billboard. 3 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  199. ^ “IU scores first No. 1 on Billboard world chart”. The Korea Herald. 4 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  200. ^ “Gaon Digital Chart – Week 13”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2017.
  201. ^ “Gaon Digital Chart – Week 15”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2017.
  202. ^ “Gaon Digital Chart – Week 16”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017.
  203. ^ 2017년 Download Chart [Year-end 2017 Download Chart (see #2)]. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2018.
  204. ^ '대중음악상' 아이유 '팔레트', 최우수 팝 음반 수상”. Naver. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  205. ^ a b “BTS, EXO, IU win big at 2017 Melon Music Awards”. Kpop Herald. 3 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  206. ^ “BTS wins big at Seoul Music Awards”. The Korea Herald. ngày 26 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2018.
  207. ^ “15 Must-Watch Videos From 2017 MAMA In Hong Kong”. Billboard. 1 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  208. ^ “[가온차트어워드] 아이유 5관왕 등극+워너원 돌풍 거셌다(종합)”. Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  209. ^ “IU, BTS win at Golden Disc Awards”. Kpop Herald. 12 tháng 1 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  210. ^ “The Best K-pop Songs of 2017: Critics' Picks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2017.
  211. ^ Magazine, The New York Times (ngày 8 tháng 3 năm 2018). “25 Songs That Tell Us Where Music Is Going”. The New York Times. The New York Times Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2018.
  212. ^ “The 20 Best K-pop Albums of 2017: Critics' Picks”. Billboard. 14 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  213. ^ “IU joins Lee Hyo-ri's guesthouse as staff”. Kpop Herald. 19 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  214. ^ “[Album review] IU's classics cover album lacks raw emotion”. The Korea Herald. 28 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  215. ^ “IU Bares Her Old Soul on 'A Flower Bookmark #2' Album”. Billboard. 25 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  216. ^ “IU makes surprise pre-release of 'Autumn Morning'. The Korea Herald. 18 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  217. ^ “IU Gifts Fans With Special Anniversary Track 'Autumn Morning'. Billboard. 18 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  218. ^ “IU's 'Autumn Morning' tops charts despite BTS' new release”. The Korea Herald. 19 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  219. ^ 아이유 "故김광석 곡 빼기로...듣는 이들 마음 편치않을 것 같아". Naver (bằng tiếng Hàn). 24 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2017.
  220. ^ “IU to Embark on Tour to Promote New Album”. The Chosun Ilbo. 28 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  221. ^ “Epik High tops music charts with 'Love Story' featuring IU”. Yonhap News Agency. 24 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  222. ^ “IU named singer of the year in survey”. Kpop Herald. 21 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  223. ^ “Comforting life through meeting 'My Mister'. The Korea Herald. 12 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  224. ^ “종영 '나의 아저씨'가 인생 드라마였던 모든 이유” [Finale, all the reasons why 'My Mister' was a life drama]. Naver. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.[liên kết hỏng]
  225. ^ '나의 아저씨' 모든 배우의 '인생작'이 되다” ['My Mister' to be a 'life work' for all of its actors]. Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2018.
  226. ^ “Zico dominates music charts with new single 'SoulMate'. Kpop Herald. 31 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  227. ^ “IU Takes Aim at the Haters in New Single 'Bbibbi' to Celebrate 10th Anniversary”. Billboard. 10 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  228. ^ 아이유 '삐삐', 멜론 역대 최고 이용자수 기록 경신 "23시간 만에 142만명↑" [공식] (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  229. ^ “2018년 41주차 Digital Chart”. Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2018.
  230. ^ “IU Chart History: World Digital Song Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2018.
  231. ^ “The Best Songs of 2018: Critics' Picks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  232. ^ “The 20 Best K-pop Songs of 2018: Critics' Picks”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2018.
  233. ^ Kim, Arin (ngày 18 tháng 9 năm 2018). “[V Report Plus] IU to tour 7 Asian cities for 10th anniversary concert”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2018.
  234. ^ “열일하는 아이유, 김동률과 듀엣X샘김 신곡 작사 참여”. Naver. ngày 30 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2019.
  235. ^ Park, Jin-hai (27 tháng 3 năm 2019). “K-pop singer IU to make film debut through Netflix”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  236. ^ Dong, Sun-hwa (14 tháng 9 năm 2018). “Singer IU to star in four short films”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
  237. ^ “IU makes film debut through Netflix original 'Persona'. Kpop Herald. 27 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  238. ^ Chung, Esther (31 tháng 12 năm 2019). “Netflix names most popular shows”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  239. ^ “Singer IU to take main role in new cable TV mystery drama 'Hotel Deluna'. Aju Daily. 6 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  240. ^ 'Hotel Del Luna' most watched TV series on weekend primetime”. The Korea Times. 4 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  241. ^ Chui, Angie (16 tháng 10 năm 2019). “IU Postpones Love Poem Album Release To Mourn Over Sulli's Death”. Business Times. Business Times Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
  242. ^ “[공식]아이유, 18일 미니 5집 '러브 포엠' 발표...'매혹 비주얼' 티저 공개”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). ngày 4 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2019.
  243. ^ Yoon, So-yeon (22 tháng 10 năm 2019). “IU postpones album release date”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2019.
  244. ^ Lee, Da-gyeom (2 tháng 11 năm 2019). “아이유 Love poem, 차트 올킬..."살았으면 좋겠다" 소개글 '먹먹'. MK (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2019.
  245. ^ “Digital Chart – Week 45 of 2019”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  246. ^ “IU Chart History: World Digital Song Sales”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2019.
  247. ^ Cho, Hae-min (23 tháng 9 năm 2019). “IU to celebrate 11th anniversary of her debut”. The Korea Times. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2019.
  248. ^ Yoon, So-yeon (3 tháng 1 năm 2020). “IU ends her 2019 tour in Jakarta”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  249. ^ Jung, Jin-ri (3 tháng 2 năm 2020). “[단독]아이유, '사랑의 불시착' OST 부른다...박지은 작가와 의리”. Spot TV News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2020.
  250. ^ Lee, Ho-yeon (15 tháng 2 năm 2020). “아이유X'사불' 시너지...OST 발매 2시간 만에 음원 차트 1위 점령”. The Hankook-Ilbo. Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2020.
  251. ^ “2020년 07주차 Digital Chart”. gaon. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2020.
  252. ^ “2020년 08주차 Digital Chart”. gaon. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2020.
  253. ^ Yoon, So-yeon (27 tháng 4 năm 2020). “IU and BTS's Suga to drop collaboration May 6”. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2020.
  254. ^ Yoon, So-yeon (7 tháng 5 năm 2020). “Collaboration between IU and BTS's Suga is a hit”. Korea JoongAng Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.
  255. ^ “IU, Suga's collaboration song 'Eight' becomes chart sensation”. The Korea Times. 7 tháng 5 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.
  256. ^ Kim, Eun-ae. “방시혁X아이유, I-LAND 첫 시그널 송 'Into the I-LAND' 오늘 발표”. Osen (bằng tiếng Hàn). News Chosun. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2020.
  257. ^ Hyun-gil, Kim (ngày 11 tháng 1 năm 2021). “아이유, 3년 만에 골든디스크어워즈 디지털 음원 '대상'. SBS News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2021.
  258. ^ Geddo, Benedetta (27 tháng 1 năm 2021). “IU's Newest Music Video Is a Reflection on Celebrity”. Teen Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2021.
  259. ^ “IU, pre-release of new song on the January 27th”. Korea Dispatch (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2021.
  260. ^ “IU confirms new album title and release date”. NME (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2021.
  261. ^ 장, 지민 기자 (26 tháng 3 năm 2021). “아이유 차트올킬 '라일락' 전곡 줄 세운 '돌아온 음원퀸'. 한국경제 (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2021.
  262. ^ Jeong, Hee-yeon (8 tháng 10 năm 2021). 아이유 19일 컴백 확정 [공식] [IU Confirmed Comeback on the 19th]. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2021 – qua Naver.
  263. ^ Park, Hye-jin (22 tháng 12 năm 2021). 아이유, 12월 29일 신곡 깜짝 발표...'조각집', 아트워크 티저 공개 [IU to release a new song on December 29th... 'Sculpture', artwork teaser released]. Dispatch (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021 – qua Naver.
  264. ^ Kim, Soo-jin. 박재범, 아이유와 첫 컬래버 시너지 통했다 [Jay Park, IU and IU's first collaboration synergy]. Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  265. ^ 2022년 12주차 Digital Chart [Digital Chart – Week 12 of 2022] (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2022.
  266. ^ “Billboard K-pop 100”. Billboard Korea (bằng tiếng Hàn). 26 tháng 3 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2022.
  267. ^ Jeong, Hee-yeon (11 tháng 3 năm 2022). 아이유 다큐 발매 연기 (전문)[공식] [IU Documentary Release Delay (Full Text)[Official]]. Sports Donga (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2022.
  268. ^ Lee, Jae-lim (10 tháng 5 năm 2022). “Hirokazu Kore-eda tells tale of unexpected family in Palme d'Or nominee 'Broker'. Korea JoongAng Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2022.
  269. ^ Quỳnh An (23 tháng 6 năm 2022). “Nữ ca sĩ Hàn quyền lực tỏa sáng với vai bà mẹ cá tính trong 'Người môi giới'. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2022.
  270. ^ Kim Nara (26 tháng 8 năm 2022). “아이유X손석구, '신인상' 받을까..."춘사국제영화제, 후보 발표" [공식]” [IU X Son Seok-gu, will she receive the 'Rookie of the Year Award'... "Chunsa International Film Festival, Candidate Announcement" [Official]]. My Daily (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  271. ^ Kim Mi-hwa (25 tháng 11 năm 2022). “고경표·이지은·임윤아·다니엘 헤니, 인기스타상 수상 [청룡영화상]” [Go Kyung-pyo, Lee Ji-eun, Lim Yoon-a, and Daniel Henney won the Popular Star Award [Blue Dragon Film Awards]] (bằng tiếng Hàn). MT Star News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2022 – qua Naver.
  272. ^ Jang, Jin-ri (28 tháng 7 năm 2022). “아이유, 9월 잠실주경기장 콘서트...여성 솔로 가수 최초” [IU's September concert at Jamsil Main Stadium... First female solo singer] (bằng tiếng Hàn). spoTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2022 – qua Naver.
  273. ^ Kim Bo-young (14 tháng 3 năm 2023). “박서준·이지은·이병헌 감독 '드림', 4월 26일 개봉 확정” [Director Park Seo-joon, Lee Ji-eun, and Lee Byung-hun's 'Dream' confirmed to be released on April 26] (bằng tiếng Hàn). E-Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023 – qua Naver.
  274. ^ Bernardo, Jaehwa (5 tháng 4 năm 2023). “BTS' Suga, IU team up anew for pre-release track 'People Pt.2'. ABS-CBN News. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2023.
  275. ^ “K-pop singer IU dropping new single 'Love Wins' on Jan. 24”. ABS-CBN News. 15 tháng 1 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2024.
  276. ^ Ji, Min-kyung (21 tháng 2 năm 2024). "역시 음원퀸" 아이유, 새 앨범 전곡 음원 차트 '줄 세우기' 완료” ["As expected of the music queen", IU completes 'lining up' the music charts for all songs from her new album] (bằng tiếng Hàn). Osen. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024 – qua Naver.
  277. ^ Daly, Rhian (11 tháng 3 năm 2024). “IU live in Seoul: pop perfection that's a privilege to watch”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2024.
  278. ^ Lee, Cory (2 tháng 1 năm 2014). “Kim Hye-soo Reclaims Glory, Good Doctor, Secret Love Win Big at the 2013 KBS Drama Awards”. TenAsia. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018.
  279. ^ Lee, Min-ji (23 tháng 5 năm 2014). “IU Makes Fans Tear Up in Her First Small Theatre Concert”. Newsen. CJ E&M eNewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  280. ^ Park, So-jung (11 tháng 9 năm 2015). “IU to hold fan meeting in Hong Kong”. Yonhap. Seoul. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  281. ^ “2015 I & U IN SHANGHAI”. Damai. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  282. ^ “아이유, 중국에서 통했을까 살펴보니...”. Maeil Business Newspaper. 21 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  283. ^ Hwang, Hye-jin (15 tháng 12 năm 2015). “IU Tops K-Pop Chart in Taiwan”. Newsen. CJ E&M eNewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2016.
  284. ^ Park, Seo-lee (17 tháng 7 năm 2016). “아이유, 중국 공연서 '보보경심' OST 열창”. Naver. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2018.
  285. ^ “Singer IU to hold year-end concert”. Yonhap News. 2 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2016.
  286. ^ “IU CONCERT 24 STEPS IN HONG KONG [Priority Booking for Citibank Credit Cardholders]”. www.hkticketing.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2016.
  287. ^ “2017 IU CONCERT 24 STEPS IN TAIPEI”. Muse Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  288. ^ [공식]아이유, '2017 아이유 투어 콘서트' 개최... '전국 4개도시+홍콩' 진행 (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2017.
  289. ^ “IU to tour 7 Asian cities for 10th anniversary concert”. Kpop Herald. 18 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2021.
  290. ^ @_IUofficial (22 tháng 9 năm 2019). “[공지] 2019 아이유 투어 콘서트 <LOVE, POEM> 일정 안내” (Tweet). Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2019 – qua Twitter.
  291. ^ @_IUofficial (12 tháng 10 năm 2019). “2019 아이유 투어 콘서트 <LOVE, POEM> 추가 일정 안내” (Tweet). Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2019 – qua Twitter.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Lỗi Lua trong Mô_đun:Liên_kết_ngoài tại dòng 45: assign to undeclared variable 'link'.