Bước tới nội dung

Lunar Gateway

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gateway
Mặt trước của trạm có hai mảng mô-đun PPE và HALO trên quỹ đạo Mặt Trăng.
Hình minh họa của trạm vũ trụ Gateway
Phù hiệu của trạm vũ trụ Gateway
Thông số
Tín hiệuDeep Space Gateway
Phi hành đoàn5 (đầy đủ)
Ngày phóngtháng 11 năm 2025 (1 năm tới) (2025-11)[1]
Tên lửa đẩyFalcon Heavy
SLS Block 1B
Địa điểm phóngKenedy LC-39
LC-39A
LC-39B
Tình trạng nhiệm vụĐang phát triển
Thể tích khả dụng125 m3 (4.400 ft khối)[2]
Cận điểm3.000 km (1.900 mi)[3]
Viễn điểm70.000 km (43.000 mi)
Độ nghiêng quỹ đạoNRHO
Chu kỳ quỹ đạo7 ngày
Thống kê vào tháng 11 năm 2024
Tham khảo: [1][2][3]
Cấu hình
Các thành phần của Lunar Gateway trong sơ đồ, với các mô-đun trên quỹ đạo được đánh dấu.
Cấu hình của trạm
tính đến ngày 16 tháng 11 năm 2022

Lunar Gateway (gọi đơn giản là Gateway) là một tổ hợp công trình quốc tế được đặt ở bên trong quỹ đạo nguyệt tâm. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm liên lạc phần lớn chạy bằng năng lượng Mặt Trời. Ngoài ra, Gateway chứa nhiều phòng thí nghiệm khoa học và các mô-đun cư trú ngắn hạn dành cho phi hành gia của chính phủ, trạm cũng chứa nhiều những chiếc xe tự hành và các con rô-bốt không gian khác. Là một dự án hợp tác đa quốc gia có sự tham gia của bốn cơ quan hàng đầu từ Trạm Vũ trụ ISS bao gồm: NASA, Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA), Cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA) và Cơ quan Vũ trụ Canada (CSA). Gateway dự kiến sẽ là trạm không gian đầu tiên được đặt ở bên ngoài quỹ đạo tầng thấp của Trái Đất và cũng là trạm vũ trụ đầu tiên quay quanh Mặt Trăng.[4][5]

Trước đây được gọi là dự án Deep Space Gateway (DSG) vào năm 2012, sau đó đã được đổi tên thành Lunar Orbital Platform-Gateway (LOP-G) trong một đề xuất vào năm 2018 của NASA để nói về ngân sách của liên bang Hoa Kỳ trong năm 2019.[6][7] Khi ngân sách của NASA được ký kết thành luật vào ngày 15 tháng 2 cùng năm,[8] Quốc hội Hoa Kỳ sau đó cũng đã cam kết cho các nghiên cứu sơ bộ với số tiền lên đến 450 triệu đô la.[8][9]

Gateway là một trung tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học đa dạng bao gồm khoa học hành tinh, vật lý thiên văn, quan sát Trái Đất, vật lý tiền Nhật, sinh học vũ trụ cơ bảnsức khoẻ con người.[10] Việc lắp ráp cho trạm dự kiến sẽ bắt đầu vào những năm thập niên 2020.[11][12][13] Đội Điều phối Khám phá và Không gian Quốc tế (ISECG) cùng với 14 cơ quan vũ trụ khác bao gồm cả NASA đã cùng kết luận rằng, các hệ thống của Gateway sẽ là một phương pháp quan trọng để mở rộng cho sự hiện diện của con người lên Mặt Trăng, Sao Hỏa và xa hơn nữa trong Hệ Mặt Trời.[14]

Gateway cũng đóng một vai trò quan trọng trong chương trình Artemis của NASA vào năm 2024 và những năm sau đó. Mặc dù dự án đã được đứng đầu bởi NASA, nhưng Gateway cũng được phát triển, lắp ráp, bảo dưỡng và được sử dụng cùng với sự hợp tác của nhiều cơ quan khác nhau như CSA, ESA, JAXA và các đối tác thương mại. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm tổ chức các hoạt động thám hiểm bằng robot và phi hành đoàn tại vùng cực nam của Mặt Trăng và cũng là địa điểm được đề xuất cho khái niệm Phương tiện Không gian sâu của NASA để chuyên chở lên sao Hỏa.[15][11][16]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản phác thảo năm 2012 về Môi trường Không gian sâu. Bao gồm có tầng đẩy CPS, mô-đun môi trường sống có nguồn gốc từ ISSMPLM.

Có một ý tưởng trước đó đã được NASA đề xuất vào năm 2012, ý tưởng nói về một cấu trúc tổ hợp được đặt ở khu vực giữa Trái Đất và Mặt Trăng (không gian cislunar) và cấu trúc đó được đặt tên là Môi trường Không gian sâu. Trong chương trình NextSTEP được khởi xướng vào năm 2015, ý tưởng đó đã nhanh chóng nhận được nguồn tài trợ rất lớn giúp cho NASA có thể nghiên cứu các yêu cầu và nguyên tắc của không gian sâu trong môi trường sống.[17] Vào tháng 2 năm 2018, những nghiên cứu của NextSTEP và các đối tác ISS đã khẳng định sẽ có thể định hướng các năng lực cần thiết cho mô-đun cư trú từ Gateway.[18] Những quang năng từ Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) của Gateway ban đầu đã từng là một phần trong kế hoạch bị huỷ bỏ tên là nhiệm vụ điều hướng tiểu hành tinh.[19][20] Vào ngày 7 tháng 11 năm 2017, NASA đã yêu cầu sự trợ giúp từ cộng đồng khoa học toàn cầu để nêu các ý tưởng của họ cho những nghiên cứu lý thuyết có thể tận dụng được vị trí của Deep Space Gateway trong không gian cislunar.[10] Một cuộc Hội thảo Khoa học Lý thuyết về Deep Space Gateway sau đó đã được tổ chức tại thành phố Denver, Colorado từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 2018. Cuộc hội thảo đã kéo dài ba ngày với tổng cộng 196 bài thuyết trình đã được đưa ra cho các nghiên cứu khoa học khả thi để có thể được nâng cao thông qua việc sử dụng Gateway.[21]

Vào ngày 27 tháng 9 năm 2017, một tuyên bố không chính thức liên quan đến việc NASA đã hợp tác với Roscosmos để hoàn thành dự án Gateway.[13] Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2020, Dmitry Rogozin, tổng giám đốc của cơ quan Roscosmos đã khẳng định lại rằng, dự án này chỉ nhằm để lấy cớ “Hoa Kỳ làm trung tâm” để cho Roscosmos tham gia.[22] Đến tháng 1 năm 2021, Roscosmos đã thông báo rằng họ sẽ ngừng tham gia dự án.[23]

Vào tháng 5 năm 2020, cả ba cơ quan hàng đầu bao gồm Cơ quan Vũ trụ Canada (CSA), Cơ quan Vũ trụ Châu Âu (ESA) và Cơ quan vũ trụ Nhật Bản (JAXA) đều đã lên kế hoạch sẽ tham gia vào dự án Gateway. Họ công bố sẽ đóng góp một phần vào công việc chế tạo robot, nhiên liệu và phần cứng liên lạc. Ngoài ra, họ cũng sẽ tạo ra nơi cư trú và năng suất nghiên cứu. Các bộ phận quốc tế sau đó dự định sẽ phóng lần lượt sau khi bộ phận PPE và HALO ban đầu của NASA được đưa vào quỹ đạo Mặt Trăng.[24]

Nghiên cứu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khoảng thời gian từ tháng 7 cho đến đầu tháng 11 năm 2017. NASA đã thực hiện khoảng năm lần nghiên cứu về cách để phát triển Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) một cách hợp lý nhất bằng cách tận dụng nhiều bản kế hoạch có giá ngân sách kết hợp 2,4 triệu đô la Mỹ từ các công ty tư nhân. Nhiều tập đoàn thương hiệu nổi tiếng như Boeing, Lockheed Martin, Orbital ATK, Sierra NevadaSpace Systems đã tham gia công việc nghiên cứu PPE.[25][20] Quyết định này đã đươc phán định cho chương trình NextSTEP-2 diễn ra vào năm 2016 nhằm để thuận tiện cho công việc nghiên cứu và tạo ra các mốc nguyên mẫu từ những mô-đun môi trường sống có thể được sử dụng trên Gateway và các phương tiện thương mại khác.[16] Gateway cũng có thể được kết hợp với các bộ phận được phát triển từ NextSTEP.[20][26] Bộ phận PPE sẽ phải sử dụng những bộ đẩy hiệu ứng Hall BHT-6000 của Busek khớp với công suất lên đến 6 kW và cặp bộ đẩy AEPS 12,5 kW từ NASA/Rocketdyne với tổng động cơ công suất nhỏ hơn 50 kW.[27][28][29][30] Vào năm 2019, hợp đồng sản xuất cho PPE đã được trao cho công ty Maxar Technologies.[31] Sau thời gian gần một năm chứng minh, NASA sau đó đã "thực hiện một lựa chọn hợp đồng để giành quyền kiểm soát cho con tàu vũ trụ".[32] Thời gian phục vụ dự kiến của con tàu là 15 năm.[33]

Vào năm 2018, NASA đã khởi xướng một cuộc thi mang tên là Học viện Liên hợp Những khái niệm về Hệ thống Hàng không Vũ trụ mang tính Cách mạng (gọi tắt là RASC-AL). Cuộc thi này dành riêng cho những trường đại học với mục đích là nhằm để phát triển các khái niệm và năng lực cho trạm Gateway. Trong cuộc thi, những đối thủ cạnh tranh sẽ được yêu cầu phải sử dụng các cấu tạo ban đầu và phân tích tại một trong bốn lĩnh vực; “Khai thác và Vận hành Gateway Không người lái”, “Nền tảng Tiếp cập Bề mặt Mặt Trăng của Con người từ Gateway”, “Nền tảng của Khoa học như Hậu cần Gateway” và “Kế hoạch Tàu kéo Cislunar Căn cứ Gateway”. Các nhóm sinh viên đại học và sinh viên tốt nghiệp sau đó đã được yêu cầu phải gửi câu trả lời giải quyết một trong bốn chủ đề này trước ngày 17 tháng 1 năm 2019. Sau đó, NASA đã chọn 20 nhóm đầu tiên để tiếp tục phát triển các quan niệm được đề xuất. 14 nhóm trong số đó đã từng trực tiếp trình bày về dự án của họ vào tháng 6 năm 2019 tại Diễn đàn RASC-AL tổ chức ở Cocoa Beach, Florida. Bài thuyết trình sau đó đã nhận được một khoản trợ cấp trị giá 6,000 đô la Mỹ để tham gia diễn đàn.[5] Sau cùng, dự án “Thám hiểm Mặt Trăng và Tiếp cận Địa cực” của nhóm sinh viên từ trường Đại học Puerto Rico at Mayagüez đã giành được chiến thắng.[34]

Vào tháng 11 năm 2019, NASA đã công bố tên gọi và biểu trưng chính thức của trạm vũ trụ. Họ giải thích rằng, tên gọi và biểu trưng của trạm có liên quan đến biểu tượng biên giới của Hoa Kỳ là vòm cong Gateway Arch nằm ở thành phố St. Louis.[35]

Hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]
Quỹ đạo quầng thẳng gần (NRHO) trong không gian cislunar, được minh họa bằng phần mềm FreeFlyer.
Quỹ đạo của Lunar Gateway. Bản đồ quỹ đạo trong bảy ngày đầu tiên. Nhìn cố định trên Mặt Trăng và Trái Đất.
Hoạt hình quỹ đạo của Lunar Gateway.
Hoạt hình quỹ đạo của Lunar Gateway. Nhìn từ phía trên cực bắc Mặt Trăng.

Gateway dự kiến sẽ được phóng theo quỹ đạo hình elip cao và đi theo Mặt Trăng theo quỹ đạo quầng thẳng gần (NRHO). Thời gian để đưa con tàu lên Mặt Trăng kéo dài khoảng bảy ngày và tiếp cận với bề mặt cực bắc của Mặt Trăng trong khoảng cách gần nhất là 1.500 km (930 mi) và 70.000 km (43.000 mi) trong khoảng cách xa nhất trên cực nam của Mặt Trăng.[3][36][37] Việc trạm vũ trụ đi theo không gian cislunar (quỹ đạo Mặt Trăng)[a] nhằm để mở rộng những kiến thức và các kinh nghiệm tất yếu, từ đó có thể vượt ra xa Mặt Trăng và tiến vào không gian sâu thẳm. Quỹ đạo NRHO sẽ cho phép Gateway có thể đi thám hiểm Mặt Trăng theo quỹ đạo cực thấp nhất với xung lượng khoảng 730 m/s Δv và mất nửa ngày để có thể quá cảnh. Trong trường hợp trạm quỹ đạo cố định[b] thì sẽ yêu cầu xung lượng ít hơn 10 m/s Δv mỗi năm. Nếu xung lực Δv bị tiêu hao ở mức tương đối nhỏ thì độ nghiêng quỹ đạo của con tàu sẽ có thể bị thay đổi và cho phép con tàu có thể tiếp cận với hầu hết bề mặt Mặt Trăng. Trạm vũ trụ sau khi phóng từ Trái Đất sẽ thực hiện một chuyến bay ngang qua Mặt Trăng với xung lực khoảng Δv ≈ 240 m/s rồi sau cùng là đến v ≈ 180 m/s) quỹ đạo NRHO được chèn thêm để cập âu đến Gateway sau khi con tàu tiếp cận củng điểm trên quỹ đạo của trạm vũ trụ. Tổng thời gian di chuyển của con tàu là 5 ngày, tương tự vói thời gian quay trở lại Trái Đất. Ngoài ra, hệ thống sẽ yêu cầu thêm động lượng Δv nếu con tàu phải dành tối đa 11 ngày tại Gateway. Đối với các nhiệm vụ phi hành đoàn sẽ kéo dài lên đến 21 ngày và với động lượng Δv ≈ 840 m/s là xung lượng giới hạn bởi nhiều chức năng của các hệ thống tầng đẩy và hỗ trợ sự sống cho Orion.[38]

Một trong những lợi ích của NRHO là nó có thể giảm số lượng mất liên lạc với Trái Đất xuống mức tổi thiểu.

Gateway được dự kiến sẽ trở thành trạm vũ trụ đa mô-đun đầu tiên được định mức bởi con người và có thể hoạt động tự chủ trong những năm đầu tiên ngoài không gian. Ngoài ra, Gateway cũng sẽ trở thành trạm không gian sâu đầu tiên được đặt ở khu vực cách xa quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất. Với phần mềm điều hành được điều khiển tinh vi hơn tất cả các trạm vũ trụ trước đây, phần mềm này sẽ giám sát và kiểm soát toàn bộ hệ thống của con tàu. Ngoài ra, con tàu còn sở hữu một kiến trúc cao cấp được cung cấp bởi phòng thí nghiệm Khoa học người máy và Thông tin cho Chuyến bay vũ trụ có Người lái và được triển khai tại các cơ sở của NASA. Gateway cũng có thể hỗ trợ phát triển và thử nghiệm hoạt động Khai thác tài nguyên tại chỗ (ISRU) từ Mặt Trăng và các tiểu hành tinh.[39] Hơn nữa, Gateway cũng sẽ mang đến cơ hội để tích lũy từ từ các khả năng cho nhiều nhiệm vụ phức tạp hơn trong tương lai.[40]

Kết cấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Bốn phi hành gia bên trong một mô-đun Gateway mô phỏng tại Cơ sở Chế biến Trạm Vũ trụTrung tâm Vũ trụ Kennedy.
Các nhân viên của NASA và Lockheed Martin đứng trên một trong những mô hình cải tạo mô-đun Gateway bên trong SSPF.

Gateway dự kiến sẽ cho các phi hành đoàn đầu tiên đến trạm trong sứ mệnh Artemis 3 vào năm 2025. Là một trạm vũ trụ thu nhỏ và tối giản chỉ chứa hai bộ phận mô-đun: Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) và Tiền đồn Cư trú và Hậu cần (HALO).[41][42] Cả hai mô-đun đều sẽ được lắp ghép trên Trái Đất và được phóng bằng tên lửa Falcon Heavy vào tháng 11 năm 2024.[1] Sau khi phóng xong, dự kiến sẽ phải mất từ chín đến mười tháng để có thể đến quỹ đạo Mặt Trăng.[43] I-Hab, một mô-đun được lắp ráp bởi hai cơ quan ESA và JAXA dự kiến sẽ được phóng trên bục SLS Block 1B dưới dạng trọng tải đồng hiển thị trên con tàu Orion của phi hành đoàn trong sứ mệnh Artemis 4.[44] Tất cả các mô-đun đều sẽ được kết nối bằng Tiêu chuẩn hệ thống lắp ghép quốc tế.[45]

Mảng Năng lượng
Mặt Trời
PPE
mô-đun lực đẩy
Mảng Năng lượng
Mặt Trời
ESPRIT-HLCS
viễn thông
HLS
cổng kết nối
HALO
hậu cần và
môi trường sống
ESPRIT-ERM
cổng quan sát
và lưu trữ hàng hóa
Hàng hóa
kết nối vận chuyển
Lưu trữ nhiên liệu
Máy tản nhiệtMáy tản nhiệt
Cổng kết nốiI-HAB
hậu cần và
môi trường sống
Cổng kết nối
Orion
cổng kết nối

Mô-đun chính thức

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE), một mô-đun được phát triển tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực đã từng được triển khai trong Nhiệm vụ Điều hướng Tiểu hành tinh. Ban đầu, mô-đun sẽ chỉ là một con tàu vũ trụ được cấu tạo từ điện mặt trời robot, với khả năng hiệu suất cao, nó có thể lấy một tảng đá lớn từ một tiểu hành tinh và đưa nó lên quỹ đạo Mặt Trăng để nghiên cứu.[46] Khi hệ thống robot ARM bị hủy bỏ, động cơ đẩy của mô-đun đã được tái sử dụng cho trạm vũ trụ Gateway.[47][48] PPE sẽ cho phép được tiếp cận toàn bộ bề mặt của Mặt Trăng và hoạt động như là một thiết bị kéo không gian để thăm dò thiết bị.[31] Ngoài ra, nó cũng đóng vai trò như là một trung tâm chỉ huy và liên lạc của Gateway.[49][50] Mô-đun sẽ có khối lượng khoảng 8–9 tấn và có thể tạo ra năng lượng điện Mặt Trời lên đến 50kW cho động cơ ion của nó, PPE cũng có thể cung cấp được thêm lực đẩy hóa học.[20][51] Vào tháng 5 năm 2019, công ty Maxar Technologies đã được NASA ký kết hợp đồng để có thể sản xuất cho loại mô-đun này với một thỏa thuận là ngoài phải cung cấp cho trạm vũ trụ thì mô-đun này sẽ còn phải cung cấp thêm năng lượng điện cho cả xe vệ tinh sê-ri 1300 của Maxar. PPE sẽ sử dụng 6 kW từ bộ đẩy hiệu ứng Hall của Busek và bộ đẩy hiệu ứng Hall từ hệ thống đẩy điện tiên tiến (AEPS) của NASA.[27][28][29] Maxar sau đó đã được trao cho một hợp đồng với trị giá khoảng 375 triệu đô la Mỹ để chế tạo cho PPE. NASA cũng đang cung cấp cho PPE một hệ thống liên lạc băng tần S được sử dụng để bổ sung thêm liên kết vô tuyến với các phương tiện ở gần và bộ điều hợp cầu dẫn để có thể tiếp nhận mô-đun và sử dụng chúng trong tương lai.[52] NASA đã được trao thêm hợp đồng trị giá 331,8 triệu đô la Mỹ để phóng PPE bằng Falcon Heavy trên SpaceX vào tháng 11 năm 2024 với mô-đun HALO.[1][53]
  • Tiền đồn Cư trú và Hậu cần (HALO),[54][55] hay còn được gọi là Mô-đun Môi trường sống Tối giản (MHM), trước đây được gọi là Mô-đun Tận dụng,[56] là một mô-đun được phát triển bởi công ty hệ thống Northrop Grumman (NGIS).[41][57] HALO sẽ ra mắt bởi một chiếc tên lửa Falcon Heavy vào tháng 11 năm 2024 cùng với chiếc mô-đun PPE.[53][41][58] HALO được thiết kế trực tiếp dựa trên một chiếc mô-đun tái tiếp tế hàng hóa tên là Cygnus, nằm ở bên ngoài mô-đun sẽ được bổ sung thêm các cổng kết nối theo lực hướng tâm, bộ tản nhiệt thì sẽ được gắn trên thân con tàu (BMR), ngoài ra con tàu cũng chứa các ắc quy và ăng-ten liên lạc. HALO dự kiến sẽ là một mô-đun cư trú thu nhỏ,[59] và nó sẽ có một bộ điều áp hữu dụng cung cấp đủ khả năng để chỉ huy, kiểm soát và xử lý các dữ liệu, lưu trữ năng lượng và phân phối điện, kiểm soát nhiệt độ, khả năng liên lạc và giám sát. Khi có hai trục trở lên đến hai cổng kết nối hướng tâm, khối lượng sắp xếp và hệ duy trì sự sống có thể bổ sung thêm cho con tàu vũ trụ Orion và hỗ trợ cho phi hành đoàn bốn người trong thời gian ít nhất 30 ngày.[57] Vào ngày 5 tháng 6 năm 2020, công ty Northrop Grumman đã được NASA trao hợp đồng trị giá 187 triệu đô la Mỹ để hoàn thành giai đoạn thiết kế sơ bộ cho HALO.[60] Đến ngày 9 tháng 7 năm 2021, NASA đã ký thêm một hợp đồng riêng với Northrop để có thể chế tạo HALO và kết hợp với mô-đun PPE, tổng trị giá lên đến 935 triệu đô la Mỹ.[1] Vào tháng 7 năm 2022, Northrop Grumman đã trao cho công ty Solstar một hợp đồng cung cấp về quyền truy cập Wi-Fi cho nhân viên và các thiết bị trong mô-đun.[61][62]
  • Đội ngũ sản xuất đứng trước một nhà máy của Thales Alenia tại Cannes, Pháp.
    Hệ thống Châu Âu Cung cấp Tiếp nhiên liệu, Cơ sở hạ tầng và Viễn thông (gọi tắt là ESPRIT) là một dạng mô-đun dịch vụ có thể cung cấp thêm dung tích xenonhydrazin, thiết bị liên lạc bổ sung và chốt gió cho các phần mềm khoa học.[2] Mô-đun có khối lượng khoảng 4.000 kg (8.800 lb) và chiều dài lên đến 3,91 m (12,8 ft).[63] Trước đây, ESA đã từng giao nhiệm vụ này thành hai bản thiết kế được nghiên cứuchế tạo theo hai phần song song, một phần là do Airbus hợp tác với Comex và OHB đảm nhận và một phần là do chính Thales Alenia Space đảm nhận.[64][65] Việc xây dựng mô-đun đã được chính thức phê duyệt vào cuối tháng 11 năm 2019.[66][67] Cho đến ngày 14 tháng 10 năm 2020, công ty Thales Alenia Space thông báo rằng, họ đã được cơ quan ESA lựa chọn để chế tạo cho chiếc mô-đun ESPRIT và họ đã ký hợp đồng để thực hiện vào đầu năm 2021.[68][69] Công ty Thales sau đó đã được NASA trao cho một hợp đồng riêng để xây dựng thêm lớp bảo vệ cho thân tàu và các vi thiên thạch.[70] ESPRIT có cấu tạo bao gồm hai bộ phận: Bộ phận đầu tiên được gọi là Hệ thống Liên lạc Halo Lunar (HLCS), chúng sẽ cung cấp các thông tin liên lạc cho trạm Gateway. Được dự kiến sẽ ra mắt vào tháng 11 năm 2024 và được gắn cùng với mô-đun HALO. Bộ phận thứ hai được gọi là Mô-đun Tiếp Nhiên liệu ESPRIT (ERM), một mô-đun nhỏ có chứa các bình nhiên liệu được điều áp, những cánh cổng tiếp giáp và hành lang lưu trú nhỏ có cửa sổ. Mô-đun dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2029.[68][69][71]
  • Mô-đun Môi trường sống Quốc tế (I-HAB) là một mô-đun cư trú bổ sung được chế tạo bởi cơ quan ESA hợp tác với JAXA.[66] Khi được gắn với mô-đun HALO, con tàu có thể cung cấp thêm 125 m3 (4.400 ft khối) thể tích cư trú tại trạm sau năm 2024.[2] Vào ngày 14 tháng 10 năm 2020, công ty Thales Alenia Space đã được cơ quan ESA tiếp tục lựa chọn để chế tạo thêm mô-đun I-HAB với thời hạn hoàn thành là vào năm 2026. Mô-đun này cũng có sự đóng góp của nhiều đối tác cơ quan khác, bao gồm cả hệ thống hỗ trợ sự sống từ JAXA, hệ thống điện tử hàng không và phần mềm từ NASA và hệ thống người máy từ CSA.[68][69] Mô-đun này sau đó dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2028 trong nhiệm vụ Artemis 4 dưới dạng trọng tải đồng biểu thị trên bục SLS Block 1B cùng với con tàu vũ trụ có người lái Orion.[71]

Mô-đun đề xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản minh họa về con tàu Lunar Gateway đang quay quanh Mặt Trăng với con tàu Orion MPCV được gắn ở bên trái.

Các khái niệm về Gateway vẫn còn đang ở trong giai đoạn phát triển và vẫn sẽ có các mô-đun khác được đề xuất:[72]

  • Mô-đun Hậu cần Gateway là một loạt các mô-đun được sử dụng để tiếp thêm nhiên liệu và cung cấp các dịch vụ hậu cần trên trạm vũ trụ. Những mô-đun hậu cần đầu tiên sẽ được gửi đến Gateway cũng như là sẽ đến cùng với một cánh tay rô-bốt do cơ quan CSA chế tạo.[73][74]
  • Canadarm3, một con tàu robot có chiều dài khoảng 8,5 m (28 ft) và có cánh tay được điều khiển từ xa. Với thiết kế tương đồng với Tàu con thoi Canadarm và Bộ phận ISS Canadarm2. Đây là một sự đóng góp của Cơ quan Vũ trụ Canada dành cho con tàu. CSA đã từng ký hợp đồng với MDA để xây dựng những con robot cánh tay này. Công ty con cũ của MDA, Spar Aerospace, đã chế tạo nên Canadaarm.[75][76][77][78]

Lắp ghép

[sửa | sửa mã nguồn]

Các chuyến bay có phi hành đoàn sau này đến Gateway dự kiến sẽ phải sử dụng con tàu Orion hoặc SLS, trong khi các nhiệm vụ khác thì được thực hiện bởi nhiều nhà cung cấp cho dịch vụ phóng thương phẩm. Vào tháng 3 năm 2020, NASA và SpaceX đã công bố con tàu vũ trụ tương lai mang tên Dragon XL sẽ là đối tác thương mại đầu tiên trong dịch vụ hậu cần Gateway, con tàu sẽ cung cấp các nhu yếu phẩm cho trạm vũ trụ.[79]

Kế hoạch

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai mô-đun đầu tiên là PPE và HALO dự kiến sẽ được phóng cùng một tên lửa Falcon Heavy vào tháng 11 năm 2024.[1][53]

Thời gian Giai đoạn Nhiệm vụ Phương tiện Loại bộ phận
Tháng 11 năm 2025[1] Mô-đun Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy (PPE) và Tiền đồn Cư trú và Hậu cần (HALO) sẽ được phóng lên không gian. Trạm không gian mini Gateway Falcon Heavy Không người lái
Tháng 12 năm 2025[71] Cung cấp thêm tàu Orion MPCV (có phi hành đoàn, để hạ cánh trên Mặt Trăng). Artemis 3 SLS
Block 1

người lái
Tháng 9 năm 2028[71] Bổ sung thêm mô-đun I-HAB.[44] Artemis 4 SLS
Block 1B

người lái
Tháng 9 năm 2029[71] Bổ sung thêm mô-đun tiếp Nhiên liệu ESPRIT (ERM).[80] Artemis 5 SLS
Block 1B

người lái
Tháng 9 năm 2030[71] Cung cấp thêm nhiều mô-đun hậu cần. Artemis 6 SLS
Block 1B

người lái
2030[71] Cung cấp thêm nhiều mô-đun chốt gió Gateway. Nhiệm vụ
Artemis phụ
Không người lái
Tháng 9 năm 2031[71] Cung cấp thêm mô-đun hậu cần và nhiều con tàu Orion MPCV. Artemis 7 SLS
Block 1B

người lái

Phản ứng

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số nhà quan chức của NASA đã quảng bá Gateway giống như một "mô-đun chỉ huy có thể tái sử dụng" và còn có thể chỉ đạo các hoạt động trên bề mặt Mặt Trăng.[81] Tuy nhiên, Gateway vẫn nhận được hầu hết các phản ứng tiêu cực từ nhiều chuyên gia không gian. Michael D. Griffin, cựu quản trị viên của NASA đã nói rằng, Gateway chỉ có thể hữu ích khi mà các cơ sở trên Mặt Trăng có thể sản xuất loại chất nổ đẩy có thể vận chuyển đến trạm vũ trụ. Sau khi đạt được thành tích đó, Gateway sẽ còn có thể đóng vai trò là một kho chứa nhiên liệu.[81] Clive Neal, một nhà địa chất của trường Đại học Notre Dame và là một trong những người ủng hộ cho chương trình khám phá Mặt Trăng, đã chỉ trích Gateway là một công trình chỉ "lãng phí tiền bạc". Ngoài ra, ông cũng chỉ trích NASA đã không hoàn thành "chính sách không gian bằng cách xây dựng một trạm vũ trụ quỹ đạo quay quanh Mặt Trăng".[82] Cựu quản trị viên của NASA là ông Doug Cooke cũng đã nói trong một bài báo trên The Hill rằng, "NASA có thể tăng tốc độ đáng kể , tối giản về chi phí và khả năng thành công của nhiệm vụ bằng cách trì hoãn cho dự án, ông khuyên nên tận dụng SLS và loại bỏ các hoạt động quan trọng của nhiệm vụ". Ông cũng khuyên NASA nên "khởi động các bộ phận của tàu đổ bộ trên SLS Block 1B. Nếu cần một yếu tố vận chuyển độc lập thì nó có thể được khởi chạy trên bệ phóng thương mại".[83]

George Abbey, cựu giám đốc của trung tâm vũ trụ Johnson, cho biết: "Về bản chất, Gateway được xây dựng để trở thành một trạm vũ trụ có thể quay quanh một trạm vũ trụ tự nhiên khác, cụ thể là Mặt Trăng. Nếu nhân loại có cơ hội để quay trở lại Mặt Trăng thì chúng ta nên đến trực tiếp, chứ không phải là xây dựng một trạm vũ trụ để quay quanh nó".[84]

Cựu phi hành gia của NASA, ông Terry W. Virts cũng là người đã từng là phi công của STS-130 trên Tàu con thoi Endeavour và là chỉ huy của trạm vũ trụ ISS trong chuyến thám hiểm Expedition 43. Ông đã trả lời trong một bài viết trên Ars Technica rằng Gateway sẽ chỉ làm "gông cùm cho hoạt động khám phá của con người và không nên kích hoạt nó". Ông nói thêm, "Nếu chúng tôi không có mục tiêu [của Gateway], thì chúng tôi không khác gì đang đặt con gà trước quả trứng bằng cách khởi động chương trình "Gemini" trước khi chúng tôi biết "Apollo" sẽ trông như thế nào. Terry chỉ trích thêm NASA vì đã loại bỏ trọng tâm của kế hoạch là tách phi hành đoàn khỏi phương tiện, được thực hiện sau thảm họa Tàu con thoi Columbia năm 2003.[85] Phi hành gia của Apollo 11 là ông Buzz Aldrin đã phản đối hoàn toàn cho dự án Gateway và nói rằng, việc sử dụng Gateway để làm khu vực tổ chức cho các sứ mệnh của người máy hoặc con người lên bề mặt Mặt Trăng là hoàn toàn vô lý và ông cũng đặt câu hỏi về lợi ích của dự án. Nhưng ngược lại, Aldrin cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với khái niệm Moon Direct của Robert Zubrin.[86]

Triệu Ngọc Bội, phó giám đốc trung tâm Chương trình Không gian và Thám hiểm Mặt trăng của Cục Vũ trụ Quốc gia Trung Quốc (CNSA) đã kết luận rằng Gateway sẽ chỉ có hiệu quả "chi phí thấp".[87] Ông cho biết rằng, thay vì xây dựng trạm vũ trụ thì kế hoạch của Trung Quốc sẽ chỉ hướng đến trạm nghiên cứu trên bề mặt.[88] Vào tháng 7 năm 2019, Trung Quốc đã tổ chức một loạt các cuộc thảo luận với Nga và ESA về hợp tác quốc tế. Đến tháng 8 năm 2020, Trạm Nghiên cứu ILRS cùng với sự hợp tác từ Nga và thỏa thuận dự kiến từ cơ quan ESA đã được CNSA công bố.[89][90]

Kiến trúc sư René Waclavicek, người đã từng tham gia thiết kế cho mô-đun I-HAB, đã bày tỏ mối lo ngại trong việc thiết kế một khu sinh hoạt thoải mái cho các phi hành gia khi đến thăm Gateway. Nếu phải làm như vậy thì kích thước của mô-đun phải thu nhỏ xuống 1,2 mét đường kính. Hơn nữa, toàn bộ 8 mét khối của I-HAB sẽ được thay thế bằng các thiết bị hỗ trợ sự sống, để lại một khoảng hành lang hẹp dài 1,5 mét khối cho không gian cá nhân được chia sẻ bởi bốn phi hành gia.[91] Người sáng lập nên Hiệp hội Sao Hỏa Robert Zubrin đã chỉ trích Gateway chính là "kế hoạch tồi tệ nhất" của NASA. Ông khẳng định loài người không cần một chiếc trạm vũ trụ để đi đâu cả như cái cách mà họ không thể làm Trạm vũ trụ quốc tế quay quanh Trái Đất, chỉ có phơi bày các đối tượng con người để chiếu xạ như một hình thức nghiên cứu y học của một số bác sĩ Đức Quốc xã. Zubrin cũng khuyên NASA nên xây dựng căn cứ trên bề mặt Mặt Trăng nếu mục tiêu củ họ là xây dựng căn cứ trên đấy vì nó là nơi có khoa học, có vật liệu che chắn, và là nơi có thể tìm thấy các nguồn tài nguyên để tạo ra chất nổ đẩy và nhiều thứ hữu ích khác.[92]

Kỹ sư vũ trụ ông Gerald Black đã khẳng định Gateway "không có vai trò gì trong việc hỗ trợ con người quay trở lại và căn cứ trên Mặt Trănh". Ông nói thêm rằng nó không nên sử dụng để làm kho nhiên liệu tên lửa vì nó chỉ có thể làm tốn kém thêm nhiên liệu.[93] Nhà báo Mark Whittington cũng đã khẳng định rằng, "dự án quỹ đạo Mặt Trăng sẽ không giúp cho chúng ta có thể quay trở lại Mặt Trăng". Ngoài ra, Whittington cũng đã chỉ chương trình Apollo đã không sử dụng bất kỳ trạm vũ trụ nào trên đấy.[94]

Nhà vật lý thiên văn Ethan Siegel đã nói rằng "Việc quay quanh Mặt Trăng để đại diện cho sự tiến bộ" là không đúng và ông khẳng định "lợi thế" duy nhất của khoa học nằm ở trong quỹ đạo của Mặt Trăng trái ngược gấp đôi với quỹ đạo tầm thấp của Trái Đất. Cuối cùng ông kết luận Gateway chỉ là "một cách tuyệt vời để tiêu tiền, chỉ có tác dụng thúc đẩy nền khoa học và nhân loại một cách tương đối không đáng kể".[95]

Vào ngày 10 tháng 12 năm 2018, quản trị viên của NASA là ông Jim Bridenstine đã phản hồi tại một buổi thuyết trình. Trong đó, ông nhấn mạnh về sứ mệnh của các phi hành đoàn khi đi lên Mặt Trăng, đồng thời cũng phản bác lại là họ chỉ đang tuân theo Chỉ thị Chính sách Không gian. Ông cho rằng, Hoa Kỳ đã đến được Mặt Trăng vào năm 1969 và họ đã chiến thắng trong cuộc đua nên bây giờ là lúc để họ nên xây dựng một kiến trúc bền vững, có thể tái sử dụng. Ông khẳng định "'lần tới khi chúng ta lên Mặt Trăng, chúng ta sẽ có những đôi ủng cùng với lá cờ Mỹ trên vai và họ sẽ luôn sát cánh cùng với các đối tác quốc tế, những người chưa bao giờ đến Mặt Trăng trước đó".[96] Vào ngày 30 tháng 3 năm 2020, Dan Hartman, người quản lý chương trình Gateway đã khẳng định về lợi ích của việc sử dụng Gateway là kéo dài thời gian để thực hiện nhiệm vụ và giảm thiểu rủi ro. Nó còn có thể hỗ trợ chức năng nghiên cứu và khả năng tái sử dụng các mô-đun đi trước.[97]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Khu vực giữa Trái Đất và Mặt Trăng
  2. ^ Trạm quỹ đạo cố định nghĩa là giữ một con tàu vũ trụ ở một khoảng cách cố định với một tàu vũ trụ hoặc một thiên thể khác.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Kelli Mars (9 tháng 7 năm 2021). “NASA, Gateway Overview” [NASA, Tổng quát về Trạm Gateway]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2023.
  2. ^ a b c d Philip Sloss (11 tháng 9 năm 2018). “NASA updates Lunar Gateway plans” [NASA cập nhật các kế hoạch của Lunar Gateway]. NASASpaceFlight.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  3. ^ a b c Cơ quan Vũ trụ châu Âu (19 tháng 7 năm 2019). “Angelic halo orbit chosen for humankind's first lunar outpost” [Quỹ đạo quầng giống thiên thần được chọn làm tiền đồn Mặt Trăng đầu tiên của loài người]. Phys.org (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  4. ^ NASA Staff (28 tháng 5 năm 2021). “FY 2022: NASA Budget Request” [Tài Chính Năm 2022: Yêu Cầu Ngân Sách Của NASA] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2021. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  5. ^ a b Shanessa Jackson (11 tháng 9 năm 2018). “Competition Seeks University Concepts for Gateway and Deep Space Exploration Capabilities” [Cuộc Thi Tìm Kiếm Các Khái Niệm Đại Học Về Khả Năng Khám Phá Gateway Và Không Gian Sâu]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  6. ^ Jason Davis (26 tháng 2 năm 2018). “Some snark (and details!) about NASA's proposed lunar space station” [Một số điều thú vị (và chi tiết!) Về trạm vũ trụ Mặt Trăng được đề xuất của NASA]. The Planetary Society (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2018.
  7. ^ Alan Yuhas (12 tháng 2 năm 2018). “Trump's Nasa budget: flying 'Jetson cars' and a return to the Moon” [Ngân sách NASA của Trump: Bay 'xe Jetson' và trở lại Mặt Trăng] (bằng tiếng Anh). The Guardian. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2018.
  8. ^ a b Jeff Foust (17 tháng 2 năm 2019). “Final fiscal year 2019 budget bill secures $21.5 billion for NASA” [Hóa đơn ngân sách tài chính năm 2019 cuối cùng đã đảm bảo 21,5 tỷ đô la cho NASA] (bằng tiếng Anh). Space News. tr. 1. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ Casey Dreier (15 tháng 2 năm 2019). “NASA just got its best budget in a decade” [NASA vừa nhận được ngân sách tốt nhất trong một thập kỷ]. The Planetary Society (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2019.
  10. ^ a b Erin Mahoney (7 tháng 11 năm 2017). “NASA Seeks Ideas for Scientific Activities Near the Moon” [NASA Tìm kiếm Ý tưởng Cho Các Hoạt động Khoa học Gần Mặt Trăng]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  11. ^ a b Kathryn Hambleton (28 tháng 3 năm 2017). “Deep Space Gateway to Open OpportunitiesArtemis for Distant Destinations” [Deep Space Gateway Nhằm Để Mở Ra Cơ hội Cho Các Điểm đến Xa xôi]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2017. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  12. ^ RCM Staff (27 tháng 9 năm 2017). “NASA. СОВМЕСТНЫЕ ИССЛЕДОВАНИЯ ДАЛЬНЕГО КОСМОСА” [NASA ĐANG NGHIÊN CỨU KHÔNG GIAN SÂU]. roscosmos.ru (bằng tiếng Nga). Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2017.
  13. ^ a b Hanneke Weitering (27 tháng 9 năm 2017). “NASA and Russia Partner Up for Crewed Deep-Space Missions” [NASA Và Nga Hợp tác Cho Các Sứ mệnh Không gian Sâu Có Phi hành đoàn]. Space.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2017.
  14. ^ NASA Editor (2 tháng 5 năm 2018). “Gateway Memorandum for the Record” [Bản ghi nhớ cho Thành tích Gateway] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  15. ^ Chris Gebhardt (6 tháng 4 năm 2017). “NASA finally sets goals, missions for SLS – eyes multi-step plan to Mars” [NASA sau cùng đặt mục tiêu và sứ mệnh cho SLS – hướng mắt tới kế hoạch bước lên sao Hỏa]. NASASpaceFlight.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  16. ^ a b NAC HEOC (29 tháng 3 năm 2017). “Cislunar Habitation and Environmental Control and Life Support Systems” [Nơi cư trú Cislunar và Hệ thống kiểm soát môi trường và Hỗ trợ sự sống] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2017.
  17. ^ Doug Messier (11 tháng 8 năm 2016). “A Closer Look at NextSTEP-2 Deep Space Habitat Concepts” [Xem xét Kỹ Hơn Về Các Lý thuyết Không gian sâu trong Môi trường sống NextSTEP-2]. Parabolic Arc (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.
  18. ^ Cheryl Warner (13 tháng 2 năm 2018). “NASA's Lunar Outpost will Extend Human Presence in Deep Space” [Tiền đồn Mặt Trăng Của NASA Sẽ Mở rộng Sự Hiện diện Của Con người Trong Không gian sâu]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  19. ^ Jeff Foust (29 tháng 7 năm 2017). “NASA Seeks Information on Developing Deep Space Gateway Module” [NASA Tìm Kiếm Thông Tin Về Việc Phát Triển Mô-đun Deep Space Gateway]. Space.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.
  20. ^ a b c d Jeff Foust (3 tháng 11 năm 2017). “NASA issues study contracts for Deep Space Gateway element” [NASA phát hành hợp đồng nghiên cứu cho bộ phận Deep Space Gateway]. spacenews.com (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.
  21. ^ Alder Ballroom (27 tháng 2 năm 2018). “Deep Space 2018 Program” [Chương Trình Deep Space 2018] (PDF). Viện Mặt Trăng và Hành Tinh (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Đại học Nghiên cứu Vũ trụ. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.
  22. ^ Jeff Foust (12 tháng 10 năm 2020). “Russia skeptical about participating in lunar Gateway” [Nga cảm thấy hoài nghi về việc tham gia dự án Lunar Gateway] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2023.
  23. ^ Interfax Staff (25 tháng 1 năm 2021). “Роскосмос подтвердил выход из лунного проекта Gateway” [Roskosmos tuyên bố rút khỏi dự án Lunar Gateway] (bằng tiếng Nga). Interfax. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2023.
  24. ^ Stephen Clark (6 tháng 5 năm 2020). “NASA plans to launch first two Gateway elements on same rocket” [NASA dự kiến sẽ phóng hai bộ phận đầu tiên của Gateway trên cùng một tên lửa]. Space Flight Now (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2023.
  25. ^ Jimi Russell; Cheryl Warner; Kelly Heidman (2 tháng 11 năm 2017). “NASA Selects Studies for Gateway Power and Propulsion Element” [NASA ưu tiên nghiên cứu về Bộ phận Năng lượng và Lực đẩy của Gateway] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Cleveland; Washington D.C: NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  26. ^ Erin Mahoney (11 tháng 8 năm 2016). “NextSTEP Partners Develop Ground Prototypes to Expand our Knowledge of Deep Space Habitats” [NextSTEP Là Đối Tác Phát Triển Các Mốc Nguyên Mẫu Để Mở Rộng Năng Lực Của Chúng Tôi Về Gian Sâu Trong Môi Trường Sống]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  27. ^ a b Jeff Foust (23 tháng 5 năm 2019). “NASA selects Maxar to build first Gateway element” [NASA chọn Maxar để xây dựng bộ phận đầu tiên cho Gateway] (bằng tiếng Anh). SpaceFlight. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  28. ^ a b R. Joseph Cassady; Jerry Jackson (Tháng 10 năm 2018). “Status of Advanced Electric Propulsion Systems for Exploration Missions” [Tình Trạng Của Hệ Thống Lực Đẩy Điện Tiên Tiến Cho Các Nhiệm Vụ Thăm Dò] (PDF). researchgate.net (bằng tiếng Anh). ResearchGate. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  29. ^ a b Busek Staff (18 tháng 3 năm 2021). “Maxar and Busek Thruster System for NASA Lunar Gateway Passes Critical Milestone” [Hệ Thống Động Cơ Đẩy Maxar và Busek từ Lunar Gateway của NASA Vượt Qua Những Cột Mốc Quan Trọng] (bằng tiếng Anh). PR Newswire. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  30. ^ David Szondy (14 tháng 11 năm 2019). “Advanced Electric Propulsion System passes full-power test milestone” [Hệ thống Lực đảy Điện Tiên tiến vượt qua giai đoạn kiểm tra toàn bộ sức mạnh]. New Atlas (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  31. ^ a b Bettina Inclán; Gina Anderson; Jimi Russell; Karen Northon (24 tháng 5 năm 2019). “NASA Awards Artemis Contract for Lunar Gateway Power, Propulsion” [NASA Trao Hợp Đồng Artemis Cho Bộ Phận Năng Lượng Và Lực Đẩy Của Lunar Gateway] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Cleveland; Washington D.C: NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  32. ^ Philip Sloss (11 tháng 9 năm 2018). “NASA updates Lunar Gateway plans” [NASA cập nhật dự án Lunar Gateway]. NASASpaceFlight.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  33. ^ Jason Crusan (7 tháng 12 năm 2018). “Gateway Update” [Cập nhật Gateway] (PDF). NASA (bằng tiếng Anh). Hội đồng Cố vấn NASA, Ủy ban Điều hành và Thăm dò Nhân loại. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  34. ^ Shanessa Jackson (21 tháng 6 năm 2019). “Students Blaze New Trails in NASA Space Exploration Design Competition” [Học Sinh Phá Cháy Những Đường Mòn Mới Trong Hành Trình Thiết Kế Thám Hiểm Không Gian Của NASA]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  35. ^ Robert Z. Pearlman (19 tháng 9 năm 2019). “NASA Reveals New Gateway Logo for Artemis Lunar Orbit Way Station” [NASA Công Bố Logo Mới Của Gateway Cho Trạm Quỹ Đạo Mặt Trăng Artemis]. Space.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  36. ^ David Szondy (18 tháng 7 năm 2019). “Halo orbit selected for Gateway space station” [Quỹ đạo vầng được chọn cho trạm vũ trụ Gateway]. New Atlas (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2023.
  37. ^ Jeff Foust (16 tháng 9 năm 2019). “NASA cubesat to test lunar Gateway orbit” [Cubesat NASA được dùng để kiểm tra quỹ đạo Lunar Gateway] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2023.
  38. ^ Ryan Whitley; Roland Martinez (21 tháng 10 năm 2015) [2015]. “Options for Staging Orbits in Cis-Lunar Space” [Các Lựa Chọn Cho Quỹ Đạo Dàn Dựng Trong Không Gian Cis-Lunar] (Giấy hội nghị). NTRS (bằng tiếng Anh). Texas: NASA (xuất bản ngày 23 tháng 10 năm 2015) (20150019648). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  39. ^ David Smitherman; Debra Needham; Ruthan Lewis (28 tháng 2 năm 2018) [2018]. “Research Possibilities Beyond Deep Space Gateway” [Chức Năng Nghiên Cứu Trong Deep Space Gateway] (PDF). NTRS (bằng tiếng Anh). Alabama; Maryland; Denver: NASA (xuất bản ngày 22 tháng 3 năm 2018) (20180002054 M18-6545). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  40. ^ Jim Free (28 tháng 3 năm 2017). “Architecture Status” [Tình Trạng Kiến Trúc] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  41. ^ a b c Jeff Foust (23 tháng 7 năm 2019). “NASA to sole source Gateway habitation module to Northrop Grumman” [NASA cung cấp mô-đun cư trú duy nhất của Gateway cho Northrop Grumman] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  42. ^ Mike Wall (24 tháng 5 năm 2019). “NASA's Grand Plan for a Lunar Gateway Is to Start Small” [Kế hoạch Lớn Của NASA Cho Lunar Gateway Bắt đầu Từ Nhiều Quy mô Nhỏ]. Space.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  43. ^ Jeff Foust (14 tháng 5 năm 2020). “NASA refines plans for launching Gateway and other Artemis elements” [NASA tinh chỉnh các kế hoạch phóng Gateway và các bộ phận khác từ chương trình Artemis] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  44. ^ a b NASA Staff. “NASA FY 2022 Budget Estimates” [Dự toán Ngân Sách Tài Chính Năm 2022 Của NASA] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. tr. 97, trong văn bản DEXP-67. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023. Việc vận chuyển I-Hab tới Gateway sẽ được thông qua phương tiện phóng SLS Block 1B với tàu Orion cung cấp khả năng đưa và lắp vào quỹ đạo.
  45. ^ Neel V. Patel (5 tháng 4 năm 2017). “NASA Unveils the Keys to Getting Astronauts to Mars and Beyond” [NASA Tiết lộ Chìa khóa Để Đưa Các Phi hành gia Lên Sao Hỏa Và Tiến xa Hơn Nữa]. The Inverse (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2023.
  46. ^ DC Agle; Tony Greicius (20 tháng 9 năm 2016). “JPL Seeks Robotic Spacecraft Development for Asteroid Redirect Mission” [JPL Tìm Kiếm Thêm Nhân Lực Để Phát Triển Thêm Con Tàu Vũ Trụ Robot Cho Nhiệm Vụ Điều Hướng Tiểu Hành Tinh]. nasa.gov (bằng tiếng Anh). Pasadena: NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  47. ^ Jeff Foust (14 tháng 6 năm 2017). “NASA closing out Asteroid Redirect Mission” [NASA kết thúc Nhiệm vụ Điều hướng Tiểu hành tinh] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  48. ^ NASA Staff (tháng 8 năm 2016). “Asteroid Redirect Robotic Mission” [Nhiệm vụ Robot Điều hướng Tiểu hành tinh]. jpl.nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA; JPL. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  49. ^ News Staff (4 tháng 4 năm 2017). “Deep Space Gateway & Transport: Concepts for Mars, Moon Exploration Unveiled” [Deep Space Gateway & Phương tiện: Các Khái niệm Về Sao Hỏa, Thám hiểm Mặt Trăng Được Tiết lộ]. sci.news (bằng tiếng Anh). Science News. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  50. ^ Stephen Clark (24 tháng 5 năm 2019). “NASA chooses Maxar to build keystone module for lunar Gateway station” [NASA chọn Maxar để xây dựng cấu trúc mô-đun cho trạm vũ trụ Lunar Gateway]. Spaceflight Now (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  51. ^ Chris Gebhardt (6 tháng 4 năm 2017). “NASA finally sets goals, missions for SLS – eyes multi-step plan to Mars” [NASA cuối cùng cũng đặt mục tiêu, sứ mệnh cho SLS – hướng tới kế hoạch những bước lên sao Hỏa]. NASASpaceFlight.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  52. ^ Stephen Clark (24 tháng 5 năm 2019). “NASA chooses Maxar to build keystone module for lunar Gateway station” [NASA chọn Maxar để xây dựng cấu trúc mô-đun cho trạm vũ trụ Lunar Gateway]. Spaceflight Now (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  53. ^ a b c Monica Witt; Patti Bielling; Isidro Reyna; Rachel Kraft; Sean Potter (9 tháng 2 năm 2021). “NASA Awards Contract to Launch Initial Elements for Lunar Outpost” [Hợp đồng Của NASA Được Trao tặng Để Khởi động Các Bộ phận Ban đầu Cho Tiền đồn Mặt Trăng] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Washington, D.C.; Houston; Florida: NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  54. ^ Jeff Foust (30 tháng 8 năm 2019). “ISS partners endorse modified Gateway plans” [Các đối tác của ISS xác nhận các kế hoạch đã sửa đổi của Gateway] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  55. ^ Amanda Griffin; Danielle Sempsrott (23 tháng 8 năm 2019). “NASA Asks American Companies to Deliver Supplies for Artemis Moon Missions” [NASA Yêu cầu Các Công ty Mỹ Cung cấp Vật tư Cho Sứ mệnh Mặt Trăng Artemis] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  56. ^ TPS Staff (3 tháng 4 năm 2019). “Humans in Deep Space” [Loài người Trong Không gian Xa xôi]. planetary.org (bằng tiếng Anh). The Planetary Society. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  57. ^ a b FBO Staff (3 tháng 9 năm 2019). “Justification for other than full and open competition (JOFOC) for the Minimal Habitation Module (MHM)” [Biện minh cho việc không cạnh tranh đầy đủ và công khai (JOFOC) cho Mô-đun Môi trường sống Tối giản (MHM)]. fbo.gov (bằng tiếng Anh). Nhà thầu Liên bang Đăng ký Hoa Kỳ. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  58. ^ Chris Gebhardt (7 tháng 8 năm 2020). “Northrop Grumman outlines HALO plans for Gateway's central module” [Northrop Grumman vạch ra các kế hoạch về HALO cho mô-đun trung tâm của Gateway]. NASASpaceFlight.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  59. ^ Doug Messier (23 tháng 7 năm 2019). “NASA Awards Contract to Northrop Grumman for Lunar Gateway Habitat Module” [Hợp đồng Của NASA Được Trao Cho Northrop Grumman Để Chế tạo Mô-đun Môi trường sống Từ Lunar Gateway]. Parabolic Arc (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  60. ^ Stephen Clark (9 tháng 6 năm 2020). “NASA signs Gateway habitat design contract with Northrop Grumman” [NASA ký hợp đồng với Northrop Grumman để thiết kế Môi trường sống Gateway]. Spaceflight Now (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  61. ^ Debra Werner (18 tháng 7 năm 2022). “Northrop Grumman taps Solstar for HALO Module Wi-Fi” [Northrop Grumman sẽ khai thác Solstar cho Wifi của Mô-đun HALO] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  62. ^ Kevin Robinson-Avila; Albuquerque Journal (3 tháng 8 năm 2022). “NM firm builds Wi-Fi 'hotspot' for NASA moon station” [Hãng NM sẽ xây 'điểm phát sóng' Wi-Fi cho trạm Mặt Trăng của NASA]. Yahoo! News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
  63. ^ Anatoly Zak; Alain Chabot (7 tháng 7 năm 2017). “ESA develops logistics vehicle for cis-lunar outpost” [ESA phát triển phương tiện hậu cần cho tiền đồn cis-lunar]. RussianSpaceWeb.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  64. ^ Comex Staff (21 tháng 11 năm 2018). “Comex and Airbus join forces around a module of the future lunar station” [Comex và Airbus cùng hợp tác xung quanh một mô-đun của trạm Mặt Trăng trong tương lai] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Comex Sas. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  65. ^ Thales Staff (5 tháng 8 năm 2019). “Retour Sur La Lune: Un Pas Vers De Nouvelles Missions D'exploration” [Trở Lại Mặt Trăng, Một Bước Tiến Tới Cho Các Sứ Mệnh Thám Hiểm Trong Tương Lai]. thalesgroup.com (bằng tiếng Pháp). Thales Group. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  66. ^ a b Jeff Foust (2 tháng 12 năm 2019). “Funding Europe's space ambitions” [Tài trợ cho tham vọng không gian của châu Âu]. thespacereview.com (bằng tiếng Anh). The Space Review. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  67. ^ Kerry Hebden (20 tháng 11 năm 2019) [2019]. “Hera mission is approved as ESA receives biggest ever budget” [Nhiệm vụ của Hera được phê duyệt sau khi ESA nhận được khoản vốn ngân sách lớn nhất từ trước đến nay]. Room (bằng tiếng Anh) (xuất bản ngày 20 tháng 11 năm 2019): 1. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  68. ^ a b c Jonathan Amos (14 tháng 10 năm 2020). “Europe steps up contributions to Artemis Moon plan” [Châu Âu tăng cường đóng góp cho sứ mệnh Mặt Trăng Artemis]. bbc.com (bằng tiếng Anh). BBC News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  69. ^ a b c Sandrine Bielecki; Catherine des Arcis; Marija Kovac (14 tháng 10 năm 2020). “Thales Alenia Space on Its Way to Reach the Moon” [Thales Alenia Space Và Hành trình Đến Mặt Trăng] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Thales Group. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  70. ^ Thales Staff (7 tháng 1 năm 2021). “Thales Alenia Space: at the Heart of Lunar Industrial Challenges” [Thales Alenia Space: Trung tâm Của Những Thách thức Công nghiệp Trên Mặt Trăng]. thalesgroup.com (bằng tiếng Anh). Thales Group. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  71. ^ a b c d e f g h Jeff Foust (13 tháng 3 năm 2023). “NASA planning to spend up to $1 billion on space station deorbit module” [NASA có kế hoạch chi tới 1 tỷ đô la cho mô-đun trạm vũ trụ ghi nợ] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  72. ^ Jason Crusan (27 tháng 3 năm 2018). “Future Human Exploration Planning: Lunar Orbital Platform-Gateway and Science Workshop Findings” [Lập Kế hoạch Thám hiểm Con người Trong Tương lai: Nền tảng Quỹ đạo Mặt Trăng-Gateway Và Kết quả Của Hội thảo Khoa học] (PDF). nasa.gov (bằng tiếng Anh). NASA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023. Phạm vi công cộng Bài viết này tích hợp văn bản từ nguồn này, vốn thuộc phạm vi công cộng.
  73. ^ Nicole Mortillaro (28 tháng 2 năm 2019). “Canada's heading to the moon: A look at the Lunar Gateway” [Canada đang hướng tới Mặt Trăng: Một góc nhìn vào Lunar Gateway]. cbc.ca (bằng tiếng Anh). CBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  74. ^ Peter Rakobowchuk (29 tháng 9 năm 2017). “Canadian Space Agency to build robotic arms for lunar space station” [Cơ quan Vũ trụ Canada chế tạo cánh tay robot cho trạm vũ trụ trên Mặt Trăng]. Global News (bằng tiếng Anh). The Canadian Press. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  75. ^ NASA Staff (26 tháng 6 năm 2020). “About Canadarm3” [Thông tin về Canadarm3]. asc-csa.gc.ca (bằng tiếng Anh). Cơ quan Vũ trụ Canada (xuất bản ngày 16 tháng 12 năm 2020). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  76. ^ CSA Staff (26 tháng 6 năm 2020). “Building the next Canadarm” [Xây dựng con tàu Canadaarm tiếp theo]. canada.ca (bằng tiếng Anh). Chính phủ Canada. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  77. ^ TCP Staff (8 tháng 12 năm 2020). “Canadian Space Agency awards Canadarm3 contract worth $22.8M to MDA” [Cơ quan Vũ trụ Canada trao hợp đồng Canadarm3 trị giá 22,8 triệu đô la cho MDA]. ctvnews.ca (bằng tiếng Anh). CTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  78. ^ CNW Staff (8 tháng 12 năm 2020). “MDA Announces Contract for Canadarm3 on NASA-led Gateway” [MDA Công bố Hợp đồng Cho Canadarm3 Trên Trạm vũ trụ Gateway Do NASA Đứng đầu]. Yahoo! News (bằng tiếng Anh). CNW. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  79. ^ Jeff Foust (27 tháng 3 năm 2020). “SpaceX wins NASA commercial cargo contract for lunar Gateway” [SpaceX giành được hợp đồng vận chuyển hàng hóa thương mại của NASA cho Lunar Gateway] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  80. ^ Jeff Foust (20 tháng 1 năm 2022). “NASA foresees gap in lunar landings after Artemis 3” [NASA thấy được khoảng trống trong các cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng sau Artemis 3] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2023.
  81. ^ a b Jeff Foust (25 tháng 12 năm 2018). “Is the Gateway the right way to the moon?” [Liệu Gateway có đi đúng đường lên Mặt Trăng?] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  82. ^ Eric Berger (20 tháng 6 năm 2022). “We got a leaked look at NASA's future Moon missions—and likely delays” [Chúng tôi có một cái nhìn rò rỉ về các sứ mệnh Mặt Trăng trong tương lai của NASA — và khả năng sẽ bị chậm trễ]. Ars Technica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  83. ^ Doug Cooke (13 tháng 9 năm 2019). “Getting back to the moon requires speed and simplicity” [Quay trở lại Mặt Trăng cần đòi hỏi về tốc độ và sự tối giản] (bằng tiếng Anh). The Hill. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  84. ^ George Abbey (13 tháng 7 năm 2019). “The moon is 'a God-given space station orbiting Earth' [Opinion]” [[Ý kiến] Mặt Trăng chính là 'trạm vũ trụ do Chúa ban cho để quay quanh Trái Đất'] (bằng tiếng Anh). Houston Chronicle. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  85. ^ Terry Virts (28 tháng 9 năm 2017). “Op-ed: The Deep Space Gateway would shackle human exploration, not enable it” [Đối ngược Xã luận: Deep Space Gateway sẽ chỉ trói buộc hoạt động khám phá của con người, không nên kích hoạt]. Ars Technica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  86. ^ Jeff Foust (16 tháng 11 năm 2018). “Advisory group skeptical of NASA lunar exploration plans” [Đội cố vấn hoài nghi về kế hoạch thám hiểm Mặt Trăng của NASA] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  87. ^ Eric Berger (17 tháng 7 năm 2018). “Chinese space official seems unimpressed with NASA's lunar gateway” [Các quan chức vũ trụ Trung Quốc không ấn tượng với dự án Lunar Gateway của NASA]. Ars Technica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  88. ^ Angeliki Kapoglou [@Capoglou] (16 tháng 7 năm 2018). “Very very interesting statement by CNSA's Pei Zhaoyu. "NASA will focus on building the LOPG. CNSA will build the lunar scientific research station on the surface" Moreover, according to Pei the LOPG has low economic effectiveness. 😈 #MoonVillage #ESA_ISRU” [Tuyên bố rất thú vị của Triệu Ngọc Bội từ CNSA. “NASA sẽ tập trung xây dựng LOPG. Còn CNSA sẽ xây dựng trạm nghiên cứu khoa học Mặt Trăng trên bề mặt.” Hơn nữa, theo Bội, LOPG chỉ có hiệu quả kinh tế thấp. 😈 #MoonVillage #ESA_ISRU] (Tweet) (bằng tiếng Anh). Amsterdam. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023 – qua Twitter.
  89. ^ ZX Staff (22 tháng 7 năm 2019). “China, Russia, Europe to jointly explore plan for research station on Moon” [Trung Quốc, Nga và châu Âu cùng khám phá kế hoạch xây dựng trạm nghiên cứu trên Mặt Trăng]. chinaview.cn (bằng tiếng Anh). Tân Hoa Xã. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  90. ^ Andrew Jones (21 tháng 8 năm 2020). “China is aiming to attract partners for an international lunar research station” [Trung Quốc đang nhắm đến việc thu hút các đối tác cho một trạm nghiên cứu Mặt Trăng quốc tế] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  91. ^ Tereza Pultarova (8 tháng 1 năm 2023). “NASA's moon-orbiting space station will be claustrophobic, architect says” [Các kiến trúc sư cho biết trạm vũ trụ quay quanh Mặt Trăng của NASA sẽ trở nên ngột ngạt]. Space.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  92. ^ Robert Zubrin (16 tháng 5 năm 2017). “NASA's Worst Plan Yet” [Kế Hoạch Tồi Tệ Nhất Của NASA]. National Review (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  93. ^ Gerald Black (14 tháng 5 năm 2018). “The Lunar Orbital Platform-Gateway: an unneeded and costly diversion” [Nền tảng Lunar Orbital-Gateway: một sự chuyển hướng không cần thiết và tốn kém]. The Space Review (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  94. ^ Mark Whittington (16 tháng 6 năm 2018). “NASA's unnecessary $504 million lunar orbit project doesn't help us get back to the Moon” [Dự án quỹ đạo Mặt Trăng trị giá 504 triệu đô la vô ích của NASA không giúp chúng ta quay trở lại Mặt Trăng] (bằng tiếng Anh). The Hill. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  95. ^ Ethan Siegel (18 tháng 5 năm 2017) [2017]. “NASA's Idea For A Space Station In Lunar Orbit Takes Humanity Nowhere” [Ý tưởng của NASA về một trạm vũ trụ trên quỹ đạo Mặt Trăng sẽ đưa nhân loại đến hư vô]. Forbes (bằng tiếng Anh). Starts With A Bang. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2023.
  96. ^ Jeff Foust (25 tháng 12 năm 2018). “Is the Gateway the right way to the moon?” [Liệu Gateway có đi đúng đường lên Mặt Trăng?] (bằng tiếng Anh). SpaceNews. tr. 1. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.
  97. ^ Eric Berger (30 tháng 3 năm 2020). “NASA officials outline plans for building a Lunar Gateway in the mid-2020s” [Các quan chức của NASA phác thảo kế hoạch xây dựng Lunar Gateway vào giữa thập niên 2020]. Ars Technica (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]