U-3 (tàu ngầm Đức) (1935)
Tàu ngầm chị em U-1
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-3 |
Đặt hàng | 2 tháng 2, 1935 [1] |
Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke, Kiel [2] |
Kinh phí | 1.500.000 Reichsmark |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 238 [2] |
Đặt lườn | 11 tháng 2, 1935 [2] |
Hạ thủy | 19 tháng 7, 1935 [2] |
Nhập biên chế | 6 tháng 9, 1935 [2] |
Xóa đăng bạ | 1 tháng 8, 1944 |
Số phận |
|
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm duyên hải Type IIA |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang |
|
Chiều cao | 8,60 m (28 ft 3 in) |
Mớn nước | 3,83 m (12 ft 7 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 80 m (260 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 3 sĩ quan, 22 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Lịch sử phục vụ | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 01 385 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
2 tàu buôn bị đánh chìm (2.348 GRT) |
U-3 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-3 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện năm chuyến tuần tra và đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng 2.348 tấn, cũng như hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm chiếm đóng Na Uy trước khi quay lại vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic. U-3 bị loại bỏ tại Neustadt, Schleswig-Holstein vào tháng 8, 1944 và bị tháo dỡ sau chiến tranh.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Tàu ngầm Type II được thiết kế dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế bởi công ty Hà Lan NV Ingenieurskantoor voor Scheepsbouw Den Haag (I.v.S),[Ghi chú 1] Chúng có trọng lượng choán nước 254 t (250 tấn Anh) khi nổi và 303 t (298 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[5] Chúng có chiều dài chung 40,90 m (134 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 27,80 m (91 ft 2 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,83 m (12 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 360 mã lực mét (260 kW; 360 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft). Chúng đạt được tốc độ tối đa 13 kn (24 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn, với tầm hoạt động tối đa 1.600 nmi (3.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35 nmi (65 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[5]
Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[5]
U-3 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[6] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 11 tháng 2, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 19 tháng 7, 1935[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 6 tháng 8, 1935[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hans Meckel.[3][4]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Do tầm xa hoạt động ngắn, U-3 chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức trong biển Baltic trước Thế Chiến II. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó được huy động vào tác chiến và thực hiện tổng cộng năm chuyến tuần tra trong chiến tranh. Chuyến thứ hai được thực hiện dọc theo bờ biển quần đảo Anh. Trong chuyến tuần tra thứ ba, dưới quyền Hạm trưởng Trung úy Hải quân Joachim Zander, vào ngày 30 tháng 9, 1939, nó đã đánh chìm tàu buôn Đan Mạch Vendia (1.150 tấn) [7] và tàu buôn Thụy Điển Gun (1.198 tấn) [7] trong eo biển Skagerrak 30 nmi (56 km) về phía Tây Bắc Hanstholm. Cùng trong ngày này nó chạm trán với tàu ngầm Anh HMS Thistle (N24); U-3 phóng một quả ngư lôi nhắm vào Thistle nhưng bị trượt.[3]
Đến tháng 4, 1940, trong chuyến tuần tra thứ năm, U-3 đã hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm chiếm đóng Na Uy. Nó lại đụng độ với tàu ngầm Anh HMS Porpoise (N14) vào ngày 16 tháng 4. Tại vị trí 10 nmi (19 km) về phía Tây Egersund, Porpoise đã phóng một loạt sáu quả ngư lôi nhắm vào mục tiêu mà nó cho là chiếc U-1 nhưng hoàn toàn không trúng đích.[3]
U-3 sau đó quay trở lại vai trò huấn luyện cho đến khi được cho ngừng hoạt động tại Neustadt, Schleswig-Holstein vào ngày 1 tháng 8, 1944, và bị loại bỏ để tháo dỡ làm nguồn phụ tùng.[3] Sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị lực lượng Anh chiếm giữ vào ngày 3 tháng 5, 1945[3] và tháo dỡ vào cuối năm đó.
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-3 đã đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng 2.348 gross register tons (GRT):
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 2] | Số phận[7] |
---|---|---|---|---|
30 tháng 9, 1939 | Vendia | Denmark | 1.150 | Bị đánh chìm |
1 tháng 10, 1939 | Gun | Sweden | 1.198 | Bị đánh chìm |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ I.v.S là một công ty bình phong được Đức dựng nên sau Thế Chiến I nhằm duy trì và tiếp tục phát triển kỹ thuật tàu ngầm Đức và cũng để lách khỏi những hạn chế mà Hiệp ước Versailles áp đặt.
- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Busch & Röll 1999a, tr. 15.
- ^ a b c d e f g h Rössler 1979, tr. 99.
- ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “The Type IIA U-boat U-3”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b Busch & Röll 1999a, tr. 283.
- ^ a b c d Gröner 1991, tr. 39–40.
- ^ Busch & Röll 1999b, tr. 15.
- ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-3”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Rössler, Eberhard (1979). Die deutschen U-Boote und ihre Werften: eine Bilddokumentation über den deutschen U-Bootbau; in zwei Bänden (bằng tiếng Đức). I. Munich: Bernard & Graefe. ISBN 3-7637-5213-7.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type IIA boat U3”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
- Hofmann, Markus. “U 3”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2015.
- “The Invasion of Norway (Operation Weserübung)”. Feldgrau - German Armed Forces Reseach 1918-1945. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2024.