Bước tới nội dung

U-3 (tàu ngầm Đức) (1935)

57°42′3″B 2°00′12″T / 57,70083°B 2,00333°T / 57.70083; -2.00333
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em U-1
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-3
Đặt hàng 2 tháng 2, 1935 [1]
Xưởng đóng tàu Deutsche Werke, Kiel [2]
Kinh phí 1.500.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 238 [2]
Đặt lườn 11 tháng 2, 1935 [2]
Hạ thủy 19 tháng 7, 1935 [2]
Nhập biên chế 6 tháng 9, 1935 [2]
Xóa đăng bạ 1 tháng 8, 1944
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IIA
Trọng tải choán nước
  • 254 t (250 tấn Anh) (nổi)
  • 303 t (298 tấn Anh) (chìm)
  • 381 t (375 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 40,9 m (134 ft 2 in) (chung)
  • 27,8 m (91 ft 2 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,08 m (13 ft 5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in)
Mớn nước 3,83 m (12 ft 7 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 360 PS (260 kW; 360 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 13 hải lý trên giờ (24 km/h; 15 mph) (nổi)
  • 6,9 hải lý trên giờ (12,8 km/h; 7,9 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 1.050 hải lý (1.940 km; 1.210 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) (nổi)
  • 35 hải lý (65 km; 40 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 01 385
Chỉ huy:
  • Trung úy Hans Meckel
  • 6 tháng 8, 1935 – 29 tháng 9, 1937
  • Đại úy Ernst-Günter Heinicke
  • 30 tháng 9, 1937 – tháng 7, 1938
  • Trung úy / Đại úy Joachim Schepke
  • 29 tháng 10, 1938 – 2 tháng 1, 1940
  • Đại úy Gerd Schreiber
  • 3 tháng 1 – 28 tháng 7, 1940
  • Đại úy Helmut Franzke
  • 29 tháng 7 – 10 tháng 11, 1940
  • Đại úy Otto von Bülow
  • 11 tháng 11, 1940 – 2 tháng 7, 1941
  • Trung úy Hans-Hartwig Trojer
  • 3 tháng 7, 1941 – 2 tháng 3, 1942
  • Trung úy Joachim Zander
  • 3 tháng 3 – 30 tháng 9, 1942
  • Trung úy Herbert Zoller
  • 1 tháng 10, 1942 – 18 tháng 5, 1943
  • Trung úy Ernst Hartmann
  • 19 tháng 5, 1943 – 9 tháng 6, 1944
  • Thiếu úy Hermann Neumeister[4]
  • 10 tháng 6 – 16 tháng 7, 1944
Chiến dịch:
  • 5 chuyến tuần tra:
  • 1: 4 tháng 9 – 8 tháng 9, 1939
  • 2: 13 tháng 9 – 24 tháng 9, 1939
  • 3: 27 tháng 9 – 3 tháng 10, 1939
  • 4: 16 tháng 3 – 29 tháng 3, 1940
  • 5: 12 tháng 4 – 19 tháng 4, 1940
Chiến thắng: 2 tàu buôn bị đánh chìm
(2.348 GRT)

U-3 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-3 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện năm chuyến tuần tra và đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng 2.348 tấn, cũng như hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm chiếm đóng Na Uy trước khi quay lại vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic. U-3 bị loại bỏ tại Neustadt, Schleswig-Holstein vào tháng 8, 1944 và bị tháo dỡ sau chiến tranh.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu ngầm Type II được thiết kế dựa theo kiểu tàu ngầm CV-707, vốn được thiết kế bởi công ty Hà Lan NV Ingenieurskantoor voor Scheepsbouw Den Haag (I.v.S),[Ghi chú 1] Chúng có trọng lượng choán nước 254 t (250 tấn Anh) khi nổi và 303 t (298 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[5] Chúng có chiều dài chung 40,90 m (134 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 27,80 m (91 ft 2 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,83 m (12 ft 7 in).[5]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 360 mã lực mét (260 kW; 360 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft). Chúng đạt được tốc độ tối đa 13 kn (24 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn, với tầm hoạt động tối đa 1.600 nmi (3.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35 nmi (65 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[5]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[5]

U-3 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[6] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 11 tháng 2, 1935,[2] hạ thủy vào ngày 19 tháng 7, 1935[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 6 tháng 8, 1935[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Hans Meckel.[3][4]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Do tầm xa hoạt động ngắn, U-3 chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức trong biển Baltic trước Thế Chiến II. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó được huy động vào tác chiến và thực hiện tổng cộng năm chuyến tuần tra trong chiến tranh. Chuyến thứ hai được thực hiện dọc theo bờ biển quần đảo Anh. Trong chuyến tuần tra thứ ba, dưới quyền Hạm trưởng Trung úy Hải quân Joachim Zander, vào ngày 30 tháng 9, 1939, nó đã đánh chìm tàu buôn Đan Mạch Vendia (1.150 tấn) [7] và tàu buôn Thụy Điển Gun (1.198 tấn) [7] trong eo biển Skagerrak 30 nmi (56 km) về phía Tây Bắc Hanstholm. Cùng trong ngày này nó chạm trán với tàu ngầm Anh HMS Thistle (N24); U-3 phóng một quả ngư lôi nhắm vào Thistle nhưng bị trượt.[3]

Đến tháng 4, 1940, trong chuyến tuần tra thứ năm, U-3 đã hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm chiếm đóng Na Uy. Nó lại đụng độ với tàu ngầm Anh HMS Porpoise (N14) vào ngày 16 tháng 4. Tại vị trí 10 nmi (19 km) về phía Tây Egersund, Porpoise đã phóng một loạt sáu quả ngư lôi nhắm vào mục tiêu mà nó cho là chiếc U-1 nhưng hoàn toàn không trúng đích.[3]

U-3 sau đó quay trở lại vai trò huấn luyện cho đến khi được cho ngừng hoạt động tại Neustadt, Schleswig-Holstein vào ngày 1 tháng 8, 1944, và bị loại bỏ để tháo dỡ làm nguồn phụ tùng.[3] Sau khi chiến tranh kết thúc, nó bị lực lượng Anh chiếm giữ vào ngày 3 tháng 5, 1945[3] và tháo dỡ vào cuối năm đó.

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-3 đã đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng 2.348 gross register tons (GRT):

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 2] Số phận[7]
30 tháng 9, 1939 Vendia  Denmark 1.150 Bị đánh chìm
1 tháng 10, 1939 Gun  Sweden 1.198 Bị đánh chìm

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ I.v.S là một công ty bình phong được Đức dựng nên sau Thế Chiến I nhằm duy trì và tiếp tục phát triển kỹ thuật tàu ngầm Đức và cũng để lách khỏi những hạn chế mà Hiệp ước Versailles áp đặt.
  2. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Busch & Röll 1999a, tr. 15.
  2. ^ a b c d e f g h Rössler 1979, tr. 99.
  3. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “The Type IIA U-boat U-3”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b Busch & Röll 1999a, tr. 283.
  5. ^ a b c d Gröner 1991, tr. 39–40.
  6. ^ Busch & Röll 1999b, tr. 15.
  7. ^ a b c Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-3”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2024.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]