Bước tới nội dung

U-147 (tàu ngầm Đức) (1940)

56°38′B 10°24′T / 56,633°B 10,4°T / 56.633; -10.400
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-137
Đặt hàng 25 tháng 9, 1939
Xưởng đóng tàu Deutsche Werke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 276
Đặt lườn 10 tháng 4, 1940
Hạ thủy 16 tháng 11, 1940 [1]
Nhập biên chế 11 tháng 12, 1940 [1]
Số phận Bị tàu chiến Anh đánh chìm tại Bắc Đại Tây Dương, 2 tháng 6, 1941 [1][2]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IID
Trọng tải choán nước
  • 314 t (309 tấn Anh) (nổi)
  • 364 t (358 tấn Anh) (chìm)
  • 460 t (450 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 43,97 m (144 ft 3 in) (chung)
  • 29,8 m (97 ft 9 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,916 m (16 ft 1,5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in)
Mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 12,7 hải lý trên giờ (23,5 km/h; 14,6 mph) (nổi)
  • 7,4 hải lý trên giờ (13,7 km/h; 8,5 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.450 hải lý (6.390 km; 3.970 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) (nổi)
  • 56 hải lý (104 km; 64 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 19 049
Chỉ huy:
  • Đại úy Reinhard Hardegen
  • 11 tháng 12, 1940 – 4 tháng 4, 1941
  • Trung úy Eberhard Wetjen
  • 5 tháng 4 – 2 tháng 6, 1941
Chiến dịch:
  • 3 chuyến tuần tra:
  • 1: 22 tháng 2 – 12 tháng 3, 1941
  • 2: 16 tháng 4 – 11 tháng 5, 1941
  • 3: 24 tháng 5 – 2 tháng 6, 1941
Chiến thắng:
  • 2 tàu buôn bị đánh chìm
    (6.145 GRT)
  • 1 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (2.491 GRT)
  • 1 tàu buôn bị hư hại
    (4.996 GRT)

U-147 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IID được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên chúng hầu như chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-147 đã thực hiện ba chuyến tuần tra tại Bắc Hải và chung quanh quần đảo Anh. Nó đã đánh chìm hai tàu buôn tổng tải trọng 6.145 GRT và gây tổn thất toàn bộ một chiếc khác tải trọng 2.491 gross register tons (GRT),[3] trước khi bị tàu chiến Anh đánh chìm tại Bắc Đại Tây Dương vào ngày 2 tháng 6, 1941.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IID là một phiên bản mở rộng của Type IIC dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 314 t (309 tấn Anh) khi nổi và 364 t (358 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[4] Chúng có chiều dài chung 43,97 m (144 ft 3 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 29,80 m (97 ft 9 in), mạn tàu rộng 4,92 m (16 ft 2 in), chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in) và mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[4] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12,7 kn (23,5 km/h) trên mặt nước và 7,4 kn (13,7 km/h) khi lặn,[4] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[4]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[4]

U-147 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 9, 1939.[2] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 10 tháng 4, 1940,[2] hạ thủy vào ngày 16 tháng 11, 1940,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 11 tháng 12, 1940[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Reinhard Hardegen.[2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Rời cảng Kiel vào ngày 9 tháng 2, 1941, U-147 đi đến cảng Bergen, Na Uy vào ngày 16 tháng 2. Nó xuất phát từ đây vào ngày 22 tháng 2 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Bắc Scotland.[5] U-147 đã tấn công Đoàn tàu HX 109 vào ngày 2 tháng 3, đánh chìm tàu buôn Na Uy Augvald ở vị trí 72 nmi (133 km) về phía Tây Bắc đảo Lewis, Outer Hebrides, tại tọa độ 59°30′B 07°30′T / 59,5°B 7,5°T / 59.500; -7.500.[6] Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Kiel vào ngày 12 tháng 3.[7][5]

Chuyến tuần tra thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Rời Kiel vào ngày 16 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, U-147 tiếp tục hoạt động tại khu vực phía Bắc Scotland.[5] Nó đánh chìm tàu buôn Na Uy Rimfakse ở vị trí 130 nmi (240 km) về phía Tây Bắc Scotland, tại tọa độ 60°10′B 08°54′T / 60,167°B 8,9°T / 60.167; -8.900 vào ngày 27 tháng 4, [8] rồi quay trở về cảng Bergen, Na Uy vào ngày 11 tháng 5. [5]

Chuyến tuần tra thứ ba và bị mất

[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ ba cũng là cuối cùng của U-147 bắt đầu từ ngày 24 tháng 5. Một tuần sau đó, nó phóng ngư lôi tấn công tàu buôn Gravelines tại vị trí về phía Tây Bắc Gweedore, Ireland, tại tọa độ 56°00′B 11°13′T / 56°B 11,217°T / 56.000; -11.217. Chiếc tàu buôn bị vỡ làm đôi, phần phía đuôi bị đắm còn phần mũi được kéo về Clyde để tháo dỡ.[5]

Vào ngày 2 tháng 6, U-147 đụng độ với Đoàn tàu OB 239 tại vùng biển về phía Tây Bắc Ireland, và đã quyết định tấn công đơn độc. Nó đã gây hư hại cho chiếc tàu buôn Mokambo (4.996 tấn), nhưng bị tàu khu trục HMS Wanderertàu corvette HMS Periwinkle hộ tống phản công bằng mìn sâu, và bị đánh chìm tại tọa độ 56°38′B 10°24′T / 56,633°B 10,4°T / 56.633; -10.400 với tổn thất nhân mạng toàn bộ 26 thành viên thủy thủ đoàn.[2][9][5]

Tóm tắt chiến công

[sửa | sửa mã nguồn]

U-137 đã đánh chìm sáu tàu buôn với tổng tải trọng 24.136 gross register tons (GRT), và gây hư hại cho một tàu buôn 4.917 GRT cùng một tàu chiến phụ trợ 10.552 GRT:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[3]
2 tháng 3, 1941 Augvald  Norway 4.811 Bị đánh chìm
27 tháng 4, 1941 Rimfakse  Norway 1.334 Bị đánh chìm
31 tháng 5, 1941 Gravelines  United Kingdom 2.491 Tổn thất toàn bộ
2 tháng 6, 1941 Mokambo  Belgium 4.996 Hư hại

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Kemp 1999, tr. 70
  2. ^ a b c d e f g Helgason, Guðmundur. “The Type IID U-boat U-147”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-137”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
  5. ^ a b c d e f Helgason, Guðmundur. “Patrols by U-147”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-147 (first patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Blair 1996, tr. 248, 302.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-147 (second patrol)”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ Blair 1996, tr. 307.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type IID boat U-147”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 147”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.