U-14 (tàu ngầm Đức) (1935)
Tàu ngầm U-9, một chiếc Type IIB tiêu biểu
| |
Lịch sử | |
---|---|
Đức Quốc Xã | |
Tên gọi | U-14 |
Đặt hàng | 2 tháng 2, 1935 |
Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke, Kiel |
Số hiệu xưởng đóng tàu | 249 |
Đặt lườn | 6 tháng 7, 1935 |
Hạ thủy | 28 tháng 12, 1935 |
Nhập biên chế | 18 tháng 1, 1936 |
Xuất biên chế | 3 tháng 5, 1945 |
Tình trạng | Đánh đắm tại Wilhelmshaven, 5 tháng 5, 1945 [1] |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Tàu ngầm duyên hải Type IIB |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài |
|
Sườn ngang |
|
Chiều cao | 8,60 m (28 ft 3 in) |
Mớn nước | 3,90 m (12 ft 10 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 150 m (490 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 3 sĩ quan, 22 thủy thủ |
Vũ khí |
|
Lịch sử phục vụ | |
Một phần của: |
|
Mã nhận diện: | M 28 451 |
Chỉ huy: |
|
Chiến dịch: |
|
Chiến thắng: |
list error: <br /> list (help) 9 tàu buôn bị đánh chìm (12.344 GRT) |
U-14 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm Đức sở hữu tàu ngầm. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên U-14 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó thực hiện sáu chuyến tuần tra và đánh chìm 9 tàu buôn với tổng tải trọng 12.344 tấn. Quay trở lại vai trò huấn luyện tại khu vực biển Baltic, U-14 bị đánh đắm tại Wilhelmshaven trong kế hoạch Regenbogen vào tháng 5, 1945.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Phân lớp Type IIB là một phiên bản mở rộng của Type IIA trước đó. Chúng có trọng lượng choán nước 279 t (275 tấn Anh) khi nổi và 328 t (323 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[2] Chúng có chiều dài chung 42,70 m (140 ft 1 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 28,20 m (92 ft 6 in), mạn tàu rộng 4,08 m (13 ft 5 in), chiều cao 8,60 m (28 ft 3 in) và mớn nước 3,90 m (12 ft 10 in).[2]
Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[2] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12 kn (22 km/h) trên mặt nước và 6,9 kn (12,8 km/h) khi lặn,[2] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[2]
Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[2]
U-14 được đặt hàng vào ngày 2 tháng 2, 1935.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 6 tháng 7, 1935,[1] hạ thủy vào ngày 26 tháng 12, 1935,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 18 tháng 1, 1936[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Victor Oehrn.[1]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]U-14 đã đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức, tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, nó được huy động cho nhiệm vụ tác chiến.[1] Vào đầu chiến tranh, lúc chiều tối ngày 3 tháng 9, 1939, U-14 phóng một quả ngư lôi tấn công một tàu ngầm Ba Lan di chuyển trên mặt nước, tự nhận đã đánh chìm được mục tiêu. Trong thực tế tàu ngầm ORP Sęp không bị hư hại vì quả ngư lôi phóng bởi U-14 đã kích nổ sớm.[3] Theo tác giả Jan Bartelski, quả ngư lôi phóng ra đã bị trượt.[4]
Sau khi thực hiện sáu chuyến tuần tra trong chiến tranh và đánh chìm chín tàu buôn với tổng tải trọng 12.344 tấn,[5][1] U-14 quay trở lại vai trò tàu huấn luyện tại khu vực biển Baltic cho đến cuối chiến tranh. Vào giai đoạn kết thúc cuộc xung đột, theo dự định của kế hoạch Regenbogen nó bị đánh đắm tại lối vào âu tàu Reader tại Wilhelmshaven vào ngày 5 tháng 5, 1945 để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1] Xác tàu được trục vớt sau đó.[1]
Tóm tắt chiến công
[sửa | sửa mã nguồn]U-14 đã đánh chìm chín tàu đối phương với tổng tải trọng 12.344 gross register tons (GRT):
Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[5] |
---|---|---|---|---|
25 tháng 1, 1940 | Biarritz | Na Uy | 1.752 | Bị đánh chìm |
15 tháng 2, 1940 | Sliepner | Đan Mạch | 1.066 | Bị đánh chìm |
16 tháng 2, 1940 | Liana | Thụy Điển | 1.646 | Bị đánh chìm |
16 tháng 2, 1940 | Osmed | Thụy Điển | 1.526 | Bị đánh chìm |
16 tháng 2, 1940 | Rhone | Đan Mạch | 1.064 | Bị đánh chìm |
7 tháng 3, 1940 | Vecht | Hà Lan | 1.965 | Bị đánh chìm |
9 tháng 3, 1940 | Abbotsford | Anh Quốc | 1.585 | Bị đánh chìm |
9 tháng 3, 1940 | Akeld | Anh Quốc | 643 | Bị đánh chìm |
9 tháng 3, 1940 | Borthwick | Anh Quốc | 1.097 | Bị đánh chìm |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type IIA U-boat U-14”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.
- ^ “ORP Sęp – Operational History”. polishnavy.pl. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010.
- ^ Bartelski, Jan (2014). “Nieudane ataki torpedowe U-Bootów na ORP Sęp”. Morze, Statki i Okręty (bằng tiếng Ba Lan). Warsaw (9-10/2014 (148)): 25–27. ISSN 1426-529X.
- ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-14”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2024.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bishop, Chris (2006). Kriegsmarine U-Boats, 1939-45. London: Amber Books. ISBN 978-1-904687-96-2.
- Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
- Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
- Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
- Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
- Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản thứ 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Helgason, Guðmundur. “The Type IIB boat U-14”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
- Hofmann, Markus. “U 14”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2015.