Bước tới nội dung

Kim Tae-yeon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Kim.
Taeyeon
태연
Taeyeon vào tháng 6 năm 2023
SinhKim Tae-yeon
9 tháng 3, 1989 (35 tuổi)
Jeonju, Jeolla Bắc, Hàn Quốc
Quốc tịch Hàn Quốc
Nghề nghiệpCa sĩ
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Năm hoạt động2007 (2007)–nay
Hãng đĩaSM Entertainment
Hợp tác với
WebsiteWebsite chính thức
Thông tin YouTube
Kênh
Năm hoạt động2014–nay
Thể loạiGiải trí, Đời sống
Lượt đăng ký1,28 triệu (tính đến 26/05/2022)
100.000 lượt đăng ký
1.000.000 lượt đăng ký
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
김태연
Hanja
金泰妍
Romaja quốc ngữGim Tae-yeon
McCune–ReischauerKim T'aeyŏn
Hán-ViệtKim Thái Nghiên

Kim Tae-yeon (Hangul: 김태연, Hán-Việt: Kim Thái Nghiên, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1989), thường được biết đến với nghệ danh Taeyeon, là một nữ ca sĩ người Hàn Quốc. Cô được biết đến là thành viên hát chính và trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation, đồng thời còn là thành viên của các nhóm nhỏ TTSOh!GG do SM Entertainment thành lập và quản lý. Bên cạnh đó, cô còn là thành viên của nhóm nhạc đặc biệt SM the BalladGot the Beat.

Được đánh giá là một trong những giọng ca hay nhất K-pop, cô bắt đầu hoạt động solo vào tháng 10 năm 2015 với mini-album đầu tay I. Album đã bán được trên 100.000 bản và bài hát chủ đề "I" đã đạt trên 2.500.000 lượt tải về. Mini-album thứ hai của cô Why được phát hành vào tháng 6 năm 2016 đạt vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart. Album đầu tay của cô, My Voice (2017) và ba đĩa đơn "11:11", "Fine", "Make Me Love You" cũng đạt được những thành công tương tự. Với tư cách ca sĩ solo, Taeyeon đã nhận được một số giải thưởng, bao gồm sáu giải Golden Disk Awards, sáu giải Seoul Music Awards, bốn giải Mnet Asian Music Awards, ba giải Melon Music Awards và năm giải Gaon Chart Music Awards.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Taeyeon được sinh ra vào ngày 9 tháng 3 năm 1989[1] tại thành phố Jeonju, Hàn Quốc. Gia đình của cô gồm bố mẹ, một người anh trai[2][3] và một người em gái.

Vào lúc 13 tuổi, Taeyeon phát hiện ra rằng "tài năng duy nhất của cô là ca hát".[4] Cô đăng ký vào SM Academy khi đang học trung học và đi từ Jeonju đến Seoul mỗi chủ nhật hàng tuần để học thanh nhạc.[5][6] Năm 2004, giảng viên thanh nhạc lúc đó của Taeyeon, Jung Sun Won, nghệ danh The One, "muốn tài năng của cô được công nhận" và tạo cơ hội để cô được hát cùng mình trong bài hát "You Bring Me Joy".[7][8][9][10] Sau đó, cô giành giải nhất tại cuộc thi SM Youth Best Competition[11] và chính thức ký hợp đồng với và bắt đầu luyện tập tại SM Entertainment.[6] Cuối cùng, cô ra mắt công chúng với tư cách là trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Girls' Generation vào năm 2007.[6][12][13] Năm 2008, Taeyeon tốt nghiệp trường Trung học Nghệ thuật Jeonju và nhận được giải thưởng thành tựu trọn đời của trường.[14]

Trước khi ra mắt, Taeyeon được truyền cảm hứng trở thành nghệ sĩ từ BoA. Cô "muốn được như BoA và hoạt động ở Nhật Bản cũng như trên toàn thế giới". Điều này trở thành hiện thực khi Girls' Generation bắt đầu hoạt động tại Nhật Bản vào năm 2010.[15][16]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

2007–11: Girls' Generation và các hoạt động cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]
Taeyeon biểu diễn vào năm 2009

Taeyeon ra mắt công chúng với tư cách là thành viên nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation vào tháng 7 năm 2007. Do những áp lực từ vị trí trưởng nhóm,[17] cô đã mắc chứng mộng du trong một thời gian.[18][19] Bên cạnh các hoạt động của nhóm, Taeyeon cũng tham gia vào một số hoạt động cá nhân. Năm 2008, Taeyeon phát hành hai bài hát solo bao gồm "If", nhạc phim của bộ phim truyền hình Hong Gil Dong[20] và "Can You Hear Me", nhạc phim của bộ phim truyền hình Beethoven Virus.[21] "If" trở nên nổi tiếng[22][23] trên nhiều bảng xếp hạng âm nhạc trực tuyến, còn "Can You Hear Me" thì nhận được giải thưởng YEPP Popularity Award tại lễ trao giải Golden Disk Awards năm 2008.[24] Ngoài ra, Taeyeon còn song ca với đàn anh cùng công ty Kangta trong bài hát "7989". Bài hát xuất hiện trong cả album đầu tay của Girls' Generation và album Eternity của Kangta. Tháng 4 năm 2008, Taeyeon trở thành người dẫn chương trình của chương trình phát thanh Kangin, Taeyeon's Chin Chin Radio cùng với Kangin, nghệ sĩ cùng công ty và thành viên nhóm nhạc nam Super Junior.[25] Sau khi Kangin ngừng tham gia vào tháng 4 năm 2009, Taeyeon trở thành người dẫn chương trình duy nhất và chương trình được đổi tên thành Taeyeon's Chin Chin Radio.[26][27][28] Chương trình kết thúc vào tháng 4 năm 2010.[29] Tháng 1 năm 2009, Taeyeon tham gia chương trình truyền hình thực tế We Got Married cùng với nghệ sĩ hài Jeong Hyeong-don. Trong chương trình, họ đóng giả một cặp vợ chồng và sống với nhau như vừa mới kết hôn.[30] Sau đó cô xuất hiện trong bài hát "Seoul" bên cạnh các thành viên cùng nhóm Jessica, Sunny, SooyoungSeohyun cũng như một số thành viên của Super Junior nhằm mục đích quảng bá cho ngành du lịch của thành phố Seoul, Hàn Quốc.[31] Tháng 9 năm 2009, Taeyeon song ca với Sunny trong bài hát "It's Love", nhạc phim của bộ phim truyền hình Heading to the Ground.[32]

Từ tháng 2 đến tháng 8 năm 2010, Taeyeon trở thành người dẫn chương trình cho chương trình truyền hình Win Win cùng với Choi Hwa-jung, Kim Shin-young, Kim Seung-woo và thành viên nhóm nhạc nam 2PM Wooyoung.[33][34] Ngày 7 tháng 5 năm 2010, cô lần đầu tiên tham gia diễn xuất trên sân khấu kịch trong vở nhạc kịch Midnight Sun, với nội dung dựa trên cuốn tiểu thuyết Nhật Bản Taiyō no uta của tác giả Aya Denkawa.[35][36] Vai diễn của cô là Kaoru Amane, một cô gái 17 tuổi bị mắc căn bệnh khô da sắc tố nên không thể ra ngoài trời vào ban ngày. Cô tìm nghị lực sống bằng việc sáng tác nhạc và biểu diễn tại một nhà ga tàu hỏa vào mỗi tối. Taeyeon phải học chơi đàn ghita để tham gia vào vở nhạc kịch[37] và đã nhận được những phản ứng tích cực cho vai diễn của mình.[38] Chia sẻ về trải nghiệm này, Taeyeon cho biết đối với cô, việc phải vừa diễn xuất vừa hát là rất khó.[39][40] Về âm nhạc, Taeyeon song ca với giảng viên thanh nhạc trước đây của mình, The One, trong bài hát "Like a Star",[41] cũng như phát hành bài hát solo "I Love You", nhạc phim của bộ phim truyền hình Athena: Goddess of War.[42] Hai bài hát lần lượt đạt vị trí thứ nhất và thứ hai trên bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của Gaon.[43][44]

Năm 2011, Taeyeon song ca với Kim Bum-soo trong bài hát "Different". Bài hát đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng nói trên.[45][46] Hai ca sĩ gặp lại nhau 2 năm sau đó và song ca bài hát "Man and Woman" tại một concert.[47]

2012–14: Girls' Generation-TTS và SM The Ballad

[sửa | sửa mã nguồn]
Taeyeon biểu diễn trong concert Märchen Fantasy của Girls' Generation vào tháng 12 năm 2013

Taeyeon tham gia vào việc lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình Despicable Me (2010) và phần tiếp theo Despicable Me 2 (2013) cùng với thành viên cùng nhóm Seohyun lần lượt trong các vai Margo và Edith.[48][49] Ngày 28 tháng 3 năm 2012, cô phát hành bài hát "Missing You Like Crazy", nhạc phim của bộ phim truyền hình The King 2 Hearts. Bài hát đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của Gaon và bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 của Billboard,[50][51] đồng thời được chọn là bài hát nhạc phim nổi tiếng nhất tại lễ trao giải Seoul Drama Awards năm 2012.[52] Ngoài ra, Taeyeon còn phát hành bài hát "Closer", nhạc phim của bộ phim truyền hình To the Beautiful You.[53] Bài hát đạt vị trí thứ 7 trên cả hai bảng xếp hạng trên.[54][55]

Tháng 5 năm 2012, Taeyeon trở thành thành viên của nhóm nhỏ Girls' Generation-TTS cùng với các thành viên cùng nhóm TiffanySeohyun với mini-album đầu tay Twinkle.[56] Cả ba thành viên trở thành người dẫn chương trình cho chương trình truyền hình âm nhạc Music Core từ tháng 2 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013.[57][58]

Ngày 12 tháng 3 năm 2013, Taeyeon phát hành bài hát "And One", nhạc phim của bộ phim truyền hình That Winter, the Wind Blows.[17] Bài hát lần lượt đạt vị trí thứ nhất và thứ hai trên bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 của Billboard và bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của Gaon.[59][60] Ngày 9 tháng 7 năm 2013, Taeyeon tiếp tục phát hành bài hát "Bye", nhạc phim của bộ phim điện ảnh Mr. Go.[61]

Tháng 2 năm 2014, Taeyeon tham gia vào nhóm nhạc ballad SM the Ballad được thành lập từ năm 2010.[62] Trong album thứ hai của nhóm, SM the Ballad Vol. 2 – Breath, cô song ca với Jonghyun, thành viên nhóm nhạc nam SHINee trong bài hát chủ đề "Breath",[63] đồng thời xuất hiện trong bài hát solo "Set Me Free".[62] "Breath" lọt vào top 10 trên cả bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của Gaon và bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 của Billboard.[64][65] Tháng 3 năm 2014, Taeyeon thu âm bài hát "Colorful" cho chiến dịch "The World Is More Beautiful Because We're Different" của kênh truyền hình JTBC.[66][67]

Ngày 30 tháng 5 năm 2014, Taeyeon phát hành bài hát "Love, that One Word", nhạc phim của bộ phim truyền hình You're All Surrounded. Bài hát cũng lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng âm nhạc trực tuyến.[68][69]

2015–17: Ra mắt với tư cách ca sĩ solo và My Voice

[sửa | sửa mã nguồn]
Kim Taeyeon trình diễn tại KBS Music Festival vào tháng 12 năm 2015.

Tháng 1 năm 2015, Taeyeon được trao giải thưởng Ca khúc chủ đề phim truyền hình Hallyu hay nhất tại lễ trao giải Seoul International Drama Awards lần thứ 10. Tháng 2 năm 2015, cô góp mặt trong bài hát "Shake that Brass" của Amber, nghệ sĩ cùng công ty và thành viên nhóm nhạc nữ f(x).[70] Tháng 9 năm 2015, cô song ca với Yim Jae-beom trong bài hát "Scars Deeper Than Love".[71]

Tháng 10 năm 2015, Taeyeon bắt đầu hoạt động với tư cách là một ca sĩ solo với việc phát hành mini-album đầu tay I[72] cũng như tổ chức concert Taeyeon's Very Special Day tại SM COEX Artium.[73] Cả mini-album và bài hát chủ đề cùng tên đều đạt vị trí thứ nhất lần lượt trên bảng xếp hạng album và bảng xếp hạng nhạc số tháng 10 năm 2015 của Gaon.[74][75] Bài hát cũng giành chiến thắng 11 lần trên các chương trình âm nhạc.[76] Concert cũng nhanh chóng bán hết vé và được bổ sung thêm một buổi diễn.[77] Tháng 11 năm 2015, Taeyeon góp mặt trong bài hát "If the World Was a Perfect Place" nằm trong album thứ sáu của Verbal Jint.[78] Ngày 2 tháng 12 năm 2015, Taeyeon giành chiến thắng tại hạng mục Nghệ sĩ nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 17.[79] Tháng 1 năm 2016, Taeyeon nhận được các giải thưởng Bonsang tại lễ trao giải Seoul Music Awards lần thứ 25 và Digital Bonsang tại lễ trao giải Golden Disk Awards lần thứ 30.[80][81] Cô cũng được thông báo là đang trong quá trình sản xuất một album solo mới.[82] Ngày 22 tháng 1, Taeyeon góp mặt trong bài hát "Don't Forget" của nam ca sĩ Crush.[83] Bài hát giành chiến thắng trên chương trình âm nhạc Show Champion vào ngày 27 tháng 1.[84] Tháng 2 năm 2016, Taeyeon phát hành bài hát "Rain", mở đầu cho dự án Station của SM Entertainment.[85] Bài hát giành chiến thắng trên chương trình âm nhạc Inkigayo vào ngày 14 tháng 2 và xuất hiện lần đầu tiên trên bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của Gaon ở vị trí thứ nhất.[86][87]

Tháng 6 năm 2016, Taeyeon phát hành mini-album thứ hai Why với hai đĩa đơn "Starlight" và "Why".[88] Tháng 7 năm 2016, cô bắt đầu tổ chức chuyến lưu diễn solo "Butterfly Kiss" và trở thành thành viên nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên thực hiện được điều này.[89] Tháng 9 năm 2016, cô phát hành bài hát nhạc phim "All with You" của bộ phim truyền hình Scarlet Heart: Ryeo.[90] Tháng 11 năm 2016, Taeyeon phát hành đĩa đơn nhạc số "11:11".[91] Bài hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng nhạc số của Gaon.[92] Sau đó cô giành chiến thắng lần thứ hai liên tiếp ở hạng mục Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 18.

Tháng 2 năm 2017, Taeyeon phát hành album phòng thu đầu tiên My Voice với bài hát chủ đề "Fine".[93] Cả album và bài hát đều đạt vị trí thứ nhất lần lượt trên Gaon Album ChartGaon Digital Chart.[94][95] Tháng 4 năm 2017, phiên bản deluxe của My Voice được phát hành cùng với đĩa đơn "Make Me Love You".[96] Bài hát đạt vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.[97] Tháng 5 năm 2017, Taeyeon tổ chức chuyến lưu diễn châu Á "Persona".[98] Chuyến lưu diễn khởi đầu tại Seoul và sau đó đi qua các thành phố Hồng Kông, Đài BắcBăng Cốc.[99]

Ngày 12 tháng 12 năm 2017, Taeyeon phát hành mini-album thứ ba This Christmas: Winter is Coming.[100] Để quảng bá cho album, cô đã tổ chức 3 đêm concert với tên gọi "The Magic of Christmas Time" tại trường Đại học Kyung Hee vào ngày 22, 23 và 24 tháng 12.[101] Album đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart,[102] và thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard World Albums Chart.[103] Đĩa đơn "This Christmas" cũng đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.

2018–21: Ra mắt tại Nhật Bản và Purpose

[sửa | sửa mã nguồn]
Taeyeon trình diễn tại Best of Best Concert vào tháng 4 năm 2018.

Tháng 6 năm 2018, Taeyeon phát hành EP thứ ba, Something New.[104] EP đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart,[105] và thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard World Albums Chart.[106] Cũng trong tháng 6, cô bắt đầu chuyến lưu diễn "Japan Showcase Tour" tại Nhật Bản dành riêng cho các thành viên chính thức của câu lạc bộ fan Nhật Bản của SM Entertainment tại.[107] Chuyến lưu diễn được tổ chức tại Fukuoka, Nagoya, Tokyo và Osaka. Sau thành công của chuyến lưu diễn, Taeyeon phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Stay" vào ngày 30 tháng 6. Tháng 8 năm 2018, Taeyeon góp mặt trong nhóm nhỏ thứ hai của Girls' Generation với tên gọi Oh!GG bao gồm các thành viên của Girls' Generation đã tái kí hợp đồng với SM Entertainment sau khi hợp đồng trước đó của nhóm với công ty hết hạn. Nhóm phát hành đĩa đơn đầu tay "Lil' Touch" vào tháng 9.[108] Từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, Taeyeon tổ chức chuyến lưu diễn châu Á thứ hai,[109] trong đó có buổi diễn ở AsiaWorld Expo Arena tại Hồng Kông, giúp cô trở thành nữ nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên tổ chức concert tại đây.[110]

Tháng 3 năm 2019, Taeyeon phát hành đĩa đơn nhạc số "Four Seasons" cùng với bài hát B-side "Blue".[111] "Four Seasons" đạt vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Billboard World Digital Songs[112] và đứng đầu bảng xếp hạng Gaon Digital Chart của Hàn Quốc trong hai tuần liên tiếp.[113] Đến nay bài hát đã đạt trên 100 triệu lượt stream và được Hiệp hội Âm nhạc Hàn Quốc chứng nhận bạch kim.[114] Tháng 4 năm 2019, Taeyeon bắt đầu chuyến lưu diễn đầu tiên của mình tại Nhật Bản với tên gọi "~Signal~", với buổi diễn đầu tiên vào ngày 13 tháng 4 tại Fukuoka.[115] Sau đó cô phát hành EP tiếng Nhật đầu tay, Voice, vào ngày 13 tháng 5.[116] Nửa sau năm 2019, Taeyeon góp mặt trong chương trình truyền hình thực tế Begin Again của đài JTBCbiểu diễn trên đường phố tại BerlinAmsterdam.[117][118] Cô cũng thu âm bài hát nhạc phim "All About You" cho bộ phim truyền hình Hotel Del Luna của đài TvN; bài hát đứng đầu bảng xếp hạng Gaon Digital Chart trong hai tuần liên tiếp.[119]

Taeyeon tại sân bay quốc tế Incheon vào tháng 7 năm 2023.

Ngày 28 tháng 10 năm 2019, Taeyeon phát hành album phòng thu thứ hai Purpose.[120] Album đạt thứ hạng cao nhất ở vị trí thứ 2 tại Hàn Quốc.[121] Bài hát chủ đề của album "Spark" cũng đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.[122] Album được tái phát hành vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, với ba bài hát mới trong đó có đĩa đơn "Dear Me".[123]

Tháng 1 năm 2020, Taeyeon bắt đầu chuyến lưu diễn "The Unseen"[124] và được công bố là sẽ tổ chức chuyến lưu diễn "Japan Tour 2020" tại 8 thành phố Nhật Bản.[125] Sau đó cô được công bố là sẽ phát hành bài hát nhạc số "Happy" vào ngày sinh nhật của cô - 9 tháng 3, nhưng việc này đã bị hoãn lại sau khi bố của cô qua đời vào đúng ngày này.[126] Thay vào đó bài hát được phát hành vào ngày 4 tháng 5.[127] Ngày 30 tháng 10, Taeyeon phát hành mini-album tiếng Nhật thứ hai #GirlsSpkOut.[128] Ngày 15 tháng 12, cô phát hành mini-album tiếng Hàn thứ tư What Do I Call You.[129]

Tháng 5, 2021, Taeyeon góp mặt trong bài hát "If I Could Tell You" nằm trong mini-album Advice của Taemin.[130] Tháng 6 năm 2021, cô phát hành đĩa đơn "Weekend".[131][132] Bài hát đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart. Tháng 8 năm 2021, Taeyeon góp mặt trong bài hát "Hate That..." của Key.[133]

2022–nay: INVU và những EP tiếp theo

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 17 tháng 1 năm 2022, Taeyeon phát hành đĩa đơn mở đường "Can't Control Myself" cho album phòng thu thứ ba của mình.[134] Album có tựa đề INVU và được phát hành vào ngày 14 tháng 2.[135] INVU là album có doanh số tuần đầu tiên cao nhất từ trước đến nay của Taeyeon (142.019 bản) và đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart.[136][137] Bài hát chủ đề cùng tên là bài hát đầu tiên đạt thành tích Perfect All-Kill trong năm 2022,[138] và đã đứng đầu bảng xếp hạng Gaon Digital Chart trong 4 tuần liên tiếp.[139]

Ngày 27 tháng 11 năm 2023, sau nhiều chuyến lưu diễn thành công của mình, Taeyeon đã cho ra mắt mini-album tiếp theo có tựa là To. X. Đến ngày 18 tháng 11 năm 2024, mini-album thứ bảy của cô mang tên Letter to Myself sẽ được ra mắt.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 19 tháng 6 năm 2014, Taeyeon bắt đầu một mối quan hệ tình cảm với Baekhyun, nghệ sĩ cùng công ty và thành viên nhóm nhạc nam EXO.[140] Sau hơn một năm hẹn hò, đại diện của hai nghệ sĩ xác nhận họ đã chia tay (Phía SM Entertainment cho biết vì lịch trình quá bận rộn nên họ không thể dành thời gian cho nhau và đây là lý do khiến tình cảm rạn nứt. Tuy nhiên, cả hai vẫn duy trì mối quan hệ tiền bối - hậu bối).

Cô cũng nổi tiếng vì chơi game rất giỏi, Đội trưởng của nhóm nhạc nữ đình đám SNSD thích ở nhà thay vì tụ tập ăn chơi vào ngày nghỉ. Một trong những thú tiêu khiển của cô nàng là chơi game trên điện thoại. Nữ ca sĩ từng đăng tải hình ảnh mình chơi game và bàn phím chơi game trên mạng xã hội. Cô kể mình luôn chơi game trước khi ngủ. Taeyeon cho hay: "Chơi game giúp tôi dễ buồn ngủ hơn".[141]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim Năm Vai Ghi chú
Kẻ trộm mặt trăng 2010 Margo (lồng tiếng) Phiên bản tiếng Hàn
I AM. – SM Town Live World Tour in Madison Square Garden 2012 Chính mình Phim tài liệu về SM Town[142]
Kẻ trộm mặt trăng 2 2013 Margo (lồng tiếng) Phiên bản tiếng Hàn
My Brilliant Life 2014 Chính mình Khách mời[143]
SM Town the Stage 2015 Chính mình Phim tài liệu về SM Town[144]

Phim truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Phim Năm Kênh Vai Ghi chú
Unstopable Marriage 2008 KBS Công chúa Bulgwang-dong Khách mời; tập 64
Salamander Guru and the Shadow 2012 SBS Chính mình Khách mời; tập 3
The Producers 2015 KBS Chính mình Khách mời; tập 1

Chương trình truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Chương trình Kênh Vai trò Ghi chú
2009 We Got Married MBC Chính mình Mùa 1; tập 42–54
2010 Win Win KBS Dẫn chương trình
2012–2013 Show! Music Core MBC Dẫn chương trình
2014 Hidden Singer JTBC Thí sinh[145] Mùa 3
2015 Daily Taengoo Cam OnStyle Chính mình Chương trình thực tế đầu tiên của cô
2019 Begin Again: Mùa 3 JTBC Thành viên đội hai Tập 7-12
2019 Petionista Taengoo V Live Đội hình chính
2020 - nay DoReMi Market tvN Diễn viên Tập 135 – nay
2021 Petkage JTBC Dẫn chương trình Cùng với Kim Hee-chulKang Ki-young và Hong Hyun-hee
2022 Queendom Mnet Dẫn chương trình Mùa 2 (cùng với Lee Young-jin)
2023 Queendom Puzzle Mnet Dẫn chương trình

Sân khấu kịch

[sửa | sửa mã nguồn]
Vở kịch Năm Vai Ghi chú
Midnight Sun 2010 Kaoru Amane Nữ chính

Chuyến lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
  • The AGIT "A Very Special Day" (2015)
  • Butterfly Kiss (2016)
  • Persona (2017)
  • This Christmas -The Magic Of Christmas Time (2017)
  • Taeyeon - Japan Show Case Tour (2018)
  • 'S...Taeyeon Concert (2018)
  • Japan Tour: Signal (2019)
  • FANMEETING "Inside - TAEYEON with S♡NE" (2019)
  • Japan Fanmeeting "Atelier" (2019)
  • The UNSEEN (2020)
  • The ODD Of LOVE (2023)

Giọng hát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Loại giọng: Full Lyric Soprano (Nữ cao trữ tình đầy đặn)
  • Quãng giọng: C3 ~ G#5 ~ F6
  • Supported range (quãng hát hỗ trợ): F#3/G3 ~ D5 ~ F#5/G5 (bao gồm headvoice)

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ khi ra mắt công chúng với tư cách là thành viên của Girls' Generation, Taeyeon đã nhận được nhiều đề cử và giải thưởng cho các hoạt động cá nhân của mình trong các lĩnh vực nhạc phim, dẫn chương trình phát thanh và sân khấu nhạc kịch. Sau khi bắt đầu hoạt động với tư cách là ca sĩ solo, cô đã giành chiến thắng ở hạng mục Nghệ sĩ nữ xuất sắc nhất tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 17, cũng như hạng mục Bonsang tại các lễ trao giải Seoul Music Awards lần thứ 25 và Golden Disk Awards lần thứ 30.[146][147][148] Vào năm 2020, tại lễ trao giải Seoul Music Awards lần thứ 29 Taeyeon đã xuất sắc giành được 3 giải thưởng lần lượt là Bonsang, OST và giải Daesang Nhạc Số danh giá trong sự nghiệp solo của cô.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Mark Russell (ngày 29 tháng 4 năm 2014). K-Pop Now!: The Korean Music Revolution. Tuttle Publishing. tr. 72. ISBN 978-1-4629-1411-1. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  2. ^ SNSD’s Taeyeon Has the Full Support of Her Brother (in Korean) Lưu trữ 2015-02-07 tại Wayback Machine Osen.co.kr (ngày 30 tháng 1 năm 2012). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
  3. ^ SNSD’s Taeyeon Has the Full Support of Her Brother (English translation) Lưu trữ 2015-04-02 tại Wayback Machine Soompi.com (ngày 30 tháng 1 năm 2012). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2014.
  4. ^ TaeTiSeo shares hidden stories of pre-debut time Lưu trữ 2017-06-29 tại Wayback Machine Kpopherald.com (ngày 22 tháng 10 năm 2014). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2015.
  5. ^ SM Academy's Lee Solim Interview (in Korean) Originally from SM-Academy.com (ngày 10 tháng 3 năm 2010). Archived on ngày 24 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2014.
  6. ^ a b c Schools for stardom groom pop wannabes Lưu trữ 2015-02-08 tại Wayback Machine Korea JoongAng Daily (ngày 18 tháng 1 năm 2008). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2015.
  7. ^ Taeyeon featured in The One's 2nd album in 2004 (in Korean) Lưu trữ 2015-07-11 tại Wayback Machine Nocutnews.co.kr (ngày 19 tháng 3 năm 2008). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2010.
  8. ^ "The One" talks about Taeyeon (in Korean) Lưu trữ 2015-07-11 tại Wayback Machine Osen.co.kr (ngày 26 tháng 1 năm 2011). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
  9. ^ "The One" talks about Taeyeon (in Korean) Lưu trữ 2022-03-24 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 26 tháng 1 năm 2011). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
  10. ^ Taeyeon's mentor, 'The One,' praises her talents Lưu trữ 2017-06-30 tại Wayback Machine Allkpop.com (ngày 31 tháng 1 năm 2011). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2014.
  11. ^ Girls' Generation Making Its American Dream Come True Lưu trữ 2018-04-25 tại Wayback Machine Billboard (ngày 13 tháng 11 năm 2011). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  12. ^ Girls' Generation's 7th member Taeyeon is revealed (in Korean) Lưu trữ 2017-06-30 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 13 tháng 7 năm 2007). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  13. ^ Taeyeon and "Midnight Sun" Musical (in Korean). Originally from Themusical.co.kr (May 2010). Archived on ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014
  14. ^ Taeyeon's high school graduation & Lifetime Achievement Award (in Korean), Originally from Mydaily.co.kr (ngày 5 tháng 2 năm 2008). Archived on ngày 7 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  15. ^ Girls' Generation's Memoirs (in Japanese). Japan: 蒼竜社(Souryuu Publishing). ngày 12 tháng 11 năm 2010. tr. 72. ISBN 9784883863877. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2014.
  16. ^ Taeyeon "I dreamt of becoming a singer after I saw BoA sunbaenim" (in Korean) Lưu trữ 2015-02-08 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 18 tháng 3 năm 2009). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2015.
  17. ^ a b Girls' Generation Leader Tae Yeon Eyes Solo Success With 'And One' Lưu trữ 2019-04-02 tại Wayback Machine Billboard (ngày 16 tháng 3 năm 2013). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  18. ^ “10 secrets of Girls' Generation”. Jisin Magazine (in Japanese). Japan. ngày 12 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  19. ^ Strong Heart Episode 11”. Strong Heart (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 15 tháng 12 năm 2009. SBS. Đã bỏ qua tham số không rõ |city= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  20. ^ Hong Gil Dong OST (KBS TV Drama) YesAsia.com (ngày 27 tháng 3 năm 2012). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  21. ^ Beethoven Virus OST Special Edition (MBC TV Drama) Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine YesAsia.com (ngày 21 tháng 1 năm 2009). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  22. ^ Girls' Generation's Taeyeon first solo song "If" gains popularity (in Korean) Lưu trữ 2015-07-01 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 30 tháng 1 năm 2008). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  23. ^ Girls' Generation's Taeyeon first solo song "If" gains popularity (in Korean) Originally from Mydaily.co.kr (ngày 3 tháng 3 năm 2008). Archived on ngày 7 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  24. ^ TVXQ, "Golden Disk" Main Award...Other Award-Popularity Award; Triple Crown King (in Korean). Originally from MyDaily.co.kr (ngày 10 tháng 12 năm 2008). Archived on ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  25. ^ Girls' Generation Taeyeon debuted as a DJ (in Korean) Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 7 tháng 4 năm 2008). Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2014.
  26. ^ Girls' Generation Dominates MBC Lưu trữ 2012-10-29 tại Wayback Machine The Korea Times (ngày 20 tháng 5 năm 2009). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2010.
  27. ^ SNSD's Taeyeon draws attention with her poses and celebrity connections (in Korean) Originally from Artsnews.mk.co.kr (ngày 10 tháng 3 năm 2011). Archived on ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  28. ^ SNSD's Taeyeon draws attention with her poses and celebrity connections (English translation) Originally from Koreaboo.com (ngày 25 tháng 5 năm 2011). Archived on ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  29. ^ Taeyeon is withdrawing from MBC Chinchin radio as a DJ (in Korean) Lưu trữ 2016-01-20 tại Wayback Machine Star.mt.co.kr (ngày 19 tháng 4 năm 2010). Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2010.
  30. ^ We Got Married Jung Hyungdon—Taeyeon Wedding News Causes Viewers' Uproar (in Korean) Lưu trữ 2009-09-16 tại Wayback Machine Chosun Ilbo (ngày 7 tháng 1 năm 2009). Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2009.
  31. ^ Girls' Generation and Super Junior's "Seoul Song" on SM Entertainment's Official YouTube Channel Lưu trữ 2016-03-09 tại Wayback Machine YouTube.com (ngày 7 tháng 7 năm 2011). Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  32. ^ Taeyeon & Sunny released "It's Love for Heading to the Ground OST Lưu trữ 2020-12-25 tại Wayback Machine Asiae.co.kr (ngày 24 tháng 9 năm 2009). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  33. ^ '승승장구' 태연 "강동원 섭외했으면" 러브콜 Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine Chosun.com (ngày 4 tháng 2 năm 2010). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  34. ^ 태연·우영 하차, '승승장구'다운 마무리 '훈훈' Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine Chosun.com (ngày 4 tháng 8 năm 2010). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  35. ^ SNSD lead lands musical role Originally from Joongangdaily.joins.com (ngày 18 tháng 3 năm 2010). Archived on ngày 12 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  36. ^ Taeyeon To Have A Musical Debut! Cast For Main Female Role (in Korean) Lưu trữ 2012-12-03 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 15 tháng 3 năm 2010). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2010.
  37. ^ 소녀, 자유를 꿈꾸다, <태양의 노래>의 김태연 (No.80) Lưu trữ 2013-02-02 tại Wayback Machine (in Korean), The Musical. ngày 11 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2010
  38. ^ Girls’ Generation singer makes theatrical debut Originally from Joongangdaily.joins.com (ngày 12 tháng 5 năm 2010). Archived on ngày 11 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  39. ^ Girls' Generation's Taeyeon reveals she doesn't want to do musicals Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine Allkpop.com (ngày 18 tháng 2 năm 2014). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2014.
  40. ^ “The Music Interview for SM The Ballad Vol. 2 Breath”. The Music Interview (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 18 tháng 2 năm 2014. Mnet. Đã bỏ qua tham số không rõ |city= (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  41. ^ Girls' Generation Taeyeon and vocal teacher The One's "Like a Star" achieves "all-kill" (in Korean) Lưu trữ 2014-12-16 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 19 tháng 11 năm 2010). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  42. ^ Taeyeon's "I Love You" for Athena: Goddess of War OST (in Korean) Lưu trữ 2015-07-12 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 14 tháng 12 năm 2010). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  43. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for November 21-27, 2010 (in Korean) Gaon (November 2010). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  44. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for December 12-18, 2010 (in Korean) Gaon (December 2010). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  45. ^ Kim Bum-soo and Taeyeon's "Different" reaches number 1 on the charts (in Korean) Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine Osen.co.kr (ngày 5 tháng 2 năm 2011). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012.
  46. ^ South Korea's Gaon Digital Chart for ngày 30 tháng 1 năm 2011 - ngày 5 tháng 2 năm 2011 (in Korean) Originally from Gaonchart.co.kr (February 2011). Archived on ngày 22 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  47. ^ Kim Bum-soo & Taeyeon sing a duet "Man and Woman" in concert (in Korean) Lưu trữ 2020-12-25 tại Wayback Machine Osen.co.kr (ngày 22 tháng 11 năm 2013). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  48. ^ Girls' Generation's Taeyeon and Seohyun cast as voice actors for Despicable Me (in Korean) Lưu trữ 2013-12-03 tại Wayback Machine Newsen.com (ngày 17 tháng 5 năm 2010). Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
  49. ^ Girls Generation Taeyeon and Seohyun to throw first pitch Lưu trữ 2015-02-07 tại Wayback Machine BNTNews.co.uk (ngày 28 tháng 8 năm 2013). Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  50. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for March 25-31, 2012 (in Korean) Gaon (March 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  51. ^ Billboard's Korea K-Pop Hot 100 for ngày 14 tháng 4 năm 2012 Billboard (April 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  52. ^ Taeyeon's "Missing You Like Crazy" won at the "2012 Seoul Drama Awards" (in Korean) Newsen.com (ngày 30 tháng 8 năm 2012). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  53. ^ Taeyeon & Dana participate in the "To The Beautiful You" OST (in Korean) Lưu trữ 2015-07-11 tại Wayback Machine Osen.co.kr (ngày 4 tháng 9 năm 2012). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
  54. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for September 2-8, 2012 (in Korean) Gaon (September 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  55. ^ Billboard's Korea K-Pop Hot 100 for ngày 22 tháng 9 năm 2012 Billboard (September 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  56. ^ Subgroup "TTS", formed by Girls' Generation's Taeyeon, Tiffany & Seohyun, debuts in May (in Korean) Lưu trữ 2020-04-06 tại Wayback Machine Daum.net (ngày 19 tháng 4 năm 2012). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  57. ^ Girls' Generation-TTS quit being MCs on Music Core after one year (in Korean) Lưu trữ 2016-03-04 tại Wayback Machine Chosun.com (ngày 3 tháng 4 năm 2013). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  58. ^ Girls' Generation-TTS's last appearance on Music Core as MCs (in Korean) Lưu trữ 2015-01-29 tại Wayback Machine Chosun.com (ngày 13 tháng 4 năm 2013). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  59. ^ Korea K-Pop Hot 100 for Mar 30, 2013 Originally from Billboard. Archived on ngày 11 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  60. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for March 10-16, 2013 (in Korean) Gaon (March 2013). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  61. ^ SNSD′s Taeyeon to Sing for ′Mr. Go′ Lưu trữ 2014-12-15 tại Wayback Machine Mwave.interest.me (ngày 3 tháng 7 năm 2013). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  62. ^ a b SM ballad artists serenade fans in joint recital Lưu trữ 2018-05-18 tại Wayback Machine Koreaherald.com (ngày 13 tháng 2 năm 2014). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  63. ^ SM group to release sophomore album ‘Breath’ next week Lưu trữ 2018-07-05 tại Wayback Machine Koreaherald.com (ngày 5 tháng 2 năm 2014). Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  64. ^ South Korea's Gaon music chart's total weekly singles sales for February 9-15, 2014 (in Korean) Gaon (February 2014). Archived on ngày 31 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  65. ^ List of K-Pop Hot 100 singles for ngày 1 tháng 3 năm 2014 Billboard (March 2014). Archived on ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  66. ^ Taeyeon Sings ‘Colorful’ for JTBC Campaign Song Lưu trữ 2014-08-08 tại Wayback Machine Soshified.com (ngày 3 tháng 3 năm 2014). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  67. ^ Taeyeon Sings ‘Colorful’ for JTBC Campaign Song (in Korean) Lưu trữ 2014-08-08 tại Wayback Machine Osen.mt.co.kr (ngày 3 tháng 3 năm 2014). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  68. ^ South Korea's Gaon music digital chart's for June 1-7, 2014 (in Korean) Gaon (June 2014). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.
  69. ^ Billboard's K-Pop Hot 100 for ngày 4 tháng 6 năm 2014 Originally from Billboard.co.kr (June 2014). Archived on ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  70. ^ “f(x)′s Amber Announces ′Shake that Brass′ as Title Song Feat. SNSD′s Taeyeon”. CJ E&M enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  71. ^ “Yim Jae Bum and SNSD Taeyeon′s ′Scars Deeper Than Love′ Rising Quickly on Music Charts”. CJ E&M enewsWorld. ngày 10 tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  72. ^ Lim Jeong-yeo (ngày 30 tháng 9 năm 2015). “SNSD's Taeyeon to launch her first solo album”. Kpop Herald. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  73. ^ “Girls' Generation's Taeyeon releases first solo”. www.movienewsguide.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2015.
  74. ^ “2015년 10월 Album Chart”. Gaon Music Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  75. ^ “2015년 10월 Digital Chart”. Gaon Music Chart. Korea Music Content Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  76. ^ “Taeyeon Takes 11th Music Show Win for "I" on "Inkigayo". Soompi. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  77. ^ “Taeyeon displays her ridiculous popularity with solo concert ticket sales”. Koreaboo. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  78. ^ “버벌진트, 4년만에 신곡 공개...소녀시대 태연·블랙넛 등 참여”. Asia Today. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  79. ^ “[2015 MAMA] SNSD's Taeyeon Wins Best Female Artist, J.Y. Park Wins Best Male Artist”. mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2015.
  80. ^ “EXO get Daesang + Winners from the '25th Seoul Music Awards'!”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2016.
  81. ^ “Big Bang win 'Digital Single of the Year' + Winners from the '30th Golden Disk Awards' (Day 1)!”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2016.
  82. ^ “Is Taeyeon making her solo comeback and Tiffany with a solo debut soon?”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2016.
  83. ^ “Crush asks 'Don't Forget' in beautiful MV ft. Taeyeon”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2016.
  84. ^ “Crush wins with his track featuring Taeyeon on 'Show Champion'!”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2016.
  85. ^ “Girls' Generation's Taeyeon sings in the 'Rain' in MV!”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 2 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2016.
  86. ^ “Taeyeon wins #1 on SBS' 'Inkigayo' + performances from WINNER, 4minute, AOA Cream & more”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 14 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2016.
  87. ^ “2016년 06주차 Digital Chart”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2016.
  88. ^ Jeon Won (ngày 23 tháng 6 năm 2016). "음원퀸 귀환" 태연, 25일 딘 피처링 '스타라이트' 선공개”. My Daily (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2016.[liên kết hỏng]
  89. ^ “태연, 첫 단독 콘서트 'TAEYEON, Butterfly Kiss' 개최”. Sports DongA (bằng tiếng Hàn). ngày 24 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2016.
  90. ^ Ahn Eun-kyung (ngày 12 tháng 9 năm 2016). “태연, 12일 0시 '달의 연인-보보경심 려'OST '올 위드 유(All with you)' 공개”. Top Star News (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2016.
  91. ^ “태연, 신곡 '11:11' 공개...'탱티쉐 오븐 앤 일레븐' 생방송 진행까지author=Kim Young-jin”. Asia Today (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2016.
  92. ^ “Gaon Digital Chart - Week 45, 2016”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  93. ^ Herman, Tamar (ngày 1 tháng 3 năm 2017). “Taeyeon Is 'Fine' With First Solo LP 'My Voice'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2017.
  94. ^ “Gaon Album Chart - Tuần 9, 2017” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2017.
  95. ^ “Gaon Digital Chart - Tuần 9, 2017” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  96. ^ Yoon Min-sik (ngày 29 tháng 3 năm 2017). “Taeyeon to release album on April 5”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2017.
  97. ^ “Gaon Digital Chart - Tuần 14, 2017”. Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2017.
  98. ^ Yoon Min-sik (ngày 7 tháng 4 năm 2017). “Taeyeon to hold 2nd solo concerts in May”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2017.
  99. ^ Yoon Min-sik (ngày 7 tháng 4 năm 2017). “Taeyeon of Girls' Generation to hold solo concert in May”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2017.
  100. ^ “Taeyeon celebrates Christmas with special album”. The Korea Herald. ngày 7 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2017.
  101. ^ “Taeyeon to return with Christmas record, concert in December”. The Korea Herald. ngày 16 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2017.
  102. ^ “Gaon Album Chart – Week 50, 2017”. Gaon Chart (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2017.
  103. ^ “World Albums, ngày 30 tháng 12 năm 2017”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
  104. ^ “Taeyeon to return with new EP on June 18”. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập 18 tháng 9 năm 2018.
  105. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. gaonchart.co.kr. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập 18 tháng 9 năm 2018.
  106. ^ “World Music: Top World Albums Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2018. Truy cập 18 tháng 9 năm 2018.
  107. ^ “TAEYEON -JAPAN SHOW CASE TOUR 2018-」グッズ販売決定!! - TAEYEON JAPAN OFFICIAL WEB – テヨン公式サイト”. 17 tháng 7 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 7 năm 2018.
  108. ^ Herman, Tamar (27 tháng 8 năm 2018). “Girls' Generation Unit 'Oh!GG' to Release New Album in September”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2018. Truy cập 18 tháng 2 năm 2019.
  109. ^ Kim, Hye-soo (17 tháng 11 năm 2018). “Taeyeon to hold solo concert in October”. K-POP Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập 20 tháng 11 năm 2018.
  110. ^ anjee85 (19 tháng 11 năm 2018). “태연, 해외 투어 포문 열다...홍콩 콘서트 성황”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). sports.chosun.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập 20 tháng 11 năm 2018.
  111. ^ “사계 (Four Seasons)” (bằng tiếng Hàn). Melon. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập 25 tháng 3 năm 2019.
  112. ^ “World Digital Song Sales”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2019. Truy cập 14 tháng 4 năm 2019.
  113. ^ “Gaon Album Chart - Week 13, 2019” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2020. Truy cập 14 tháng 4 năm 2019.
  114. ^ “Streaming Certifications” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập 10 tháng 12 năm 2019.
  115. ^ “Taeyeon from Girls' Generation to tour 4 Japanese cities in April”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2019. Truy cập 23 tháng 2 năm 2019.
  116. ^ “Taeyeon will release her first Japanese mini-album 'VOICE' on June 5th!”. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019. Truy cập 14 tháng 4 năm 2019.
  117. ^ “JTBC 측 "이적-태연-폴킴 '비긴어게인3' 후발팀 합류"(공식입장)” [JTBC Announces Lee Juck, Taeyeon, Paul Kim Joining Second Team in Begin Again Season 3]. Naver (bằng tiếng Hàn). 22 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập 8 tháng 6 năm 2019.
  118. ^ “박정현X하림X헨리X수현, '비긴어게인3'로 다시 뭉친다...7월 첫방” [Park Junh-hyun x Harim x Henry x Suhyun to Reunite for Begin Again 3]. Naver (bằng tiếng Hàn). 16 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2019.
  119. ^ “Gaon Digital Chart - Week 30, 2019” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2019. Truy cập 28 tháng 7 năm 2019.
  120. ^ Khouri, Samar (13 tháng 10 năm 2019). “K-Pop Corner: Girls Generation's Taeyeon to drop second album”. Gulf News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2019. Truy cập 17 tháng 10 năm 2019.
  121. ^ “Album Chart – Week 44 of 2019” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020.
  122. ^ “Digital Chart – Week 44 of 2019”. Gaon Music Chart. 2 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2018. Truy cập 7 tháng 11 năm 2019.
  123. ^ “태연 정규 2집 리패키지 앨범 발매...신곡 3곡 추가”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  124. ^ 태연, 네 번째 단독 콘서트 'THE UNSEEN' 1월 17~19일 개최. JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). 12 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập 9 tháng 2 năm 2020.
  125. ^ テヨン、全国ソロツアー「TAEYEON JAPAN TOUR 2020(仮)」開催決定! (bằng tiếng Nhật). taeyeon.girls-generation.jp. 25 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2020.
  126. ^ “Taeyeon postpones single release as father dies on her birthday”. metro.co.uk. 9 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập 12 tháng 3, 2019.
  127. ^ “SM 측 "태연 '해피', 5월 4일 발매"...2개월 만 베일 벗는다 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2020.
  128. ^ “テヨンの日本で2枚目となるミニアルバム『#GirlsSpkOut』11月18日に発売決定”, Girls' Generation Universal Music Japan official site (bằng tiếng Nhật), Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2023, truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2020
  129. ^ “태연, 15일 컴백...'What Do I Call You' 발매 [공식]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2020.
  130. ^ Ahn Jin-yong (18 tháng 5 năm 2021). '태태 남매' 태민·태연...'If I could tell you' 듀엣”. Munhwa Ilbo (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  131. ^ Park Seo-hyun (29 tháng 6 năm 2021). “태연, 새 싱글 'Weekend' 7월 6일 공개..톡톡 튀는 휴일 바이브(공식)”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
  132. ^ Lee Min-ji (6 tháng 7 năm 2021). "고민 안할래" 태연, 주말을 상큼하게 즐기는 방법 'Weekend'[들어보고서]”. Naver (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
  133. ^ “샤이니 키, 2년 6개월만에 솔로 컴백!” (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc 24 Tháng tám năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2021.
  134. ^ Park Soo-in (11 tháng 1 năm 2022). “태연 'Can't Control Myself'로 컴백, 정규 3집 발매 전 선공개” [TAEYEON's comeback with 'Can't Control Myself', pre-released before 3rd full album release] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2022 – qua Naver.
  135. ^ Jo Hye-jin (26 tháng 1 năm 2022). “태연, 정규 3집 2월 14일 발매 확정 [공식입장]” [TAEYEON, 3rd regular album to be released on February 14 [Official position]] (bằng tiếng Hàn). Xports News. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2022 – qua Naver.
  136. ^ “[초동 기록] 태연 'INVU' 초동 14만 장 커리어 하이...역대 여솔로 4위 기록 '킹태연' (한터차트 공식)”. 한터뉴스 (bằng tiếng Anh). 21 tháng 2 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022.
  137. ^ “2022년 08주차 Album Chart” [Week 8 of 2022 Album Chart] (bằng tiếng Hàn). Korea Music Content Association. February 13–19, 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2022 – qua Gaon Chart.
  138. ^ “Girls' Generation's Taeyeon Achieves 1st Perfect All-Kill Of 2022 With "INVU". Soompi (bằng tiếng Anh). iChart. 1645848902. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2022. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  139. ^ “Gaon Digital Chart: Chart History - 태연 (TAEYEON)” (bằng tiếng Hàn). Gaon Music Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2022.
  140. ^ Ock Hyun-ju (ngày 19 tháng 6 năm 2014). “SM confirms EXO's Baekhyun and SNSD's Taeyeon dating”. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2014.
  141. ^ “Taeyeon và những sao nữ Kpop nghiện chơi game”.
  142. ^ Documentary Shows Top K-Pop Singers Behind the Scenes Lưu trữ 2018-09-29 tại Wayback Machine The Chosun Ilbo (May 2, 2012). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2014.
  143. ^ TaeTiSeo makes a cameo appearance in Kang Dong Won's movie My Brilliant Life (in Korean) Lưu trữ 2014-08-21 tại Wayback Machine Hankooki.com (August 21, 2014). Truy cập August 21, 2014.
  144. ^ 'SM타운' 공연실황 다큐, 8월13일 국내개봉 확정 Lưu trữ 2016-01-30 tại Wayback Machine (in Korean).
  145. ^ Taeyeon to Appear on Season Three of ‘Hidden Singer’ Lưu trữ 2016-04-22 tại Wayback Machine Soshified.com (May 17, 2014). Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  146. ^ “[2015 MAMA] SNSD's Taeyeon Wins Best Female Artist, J.Y. Park Wins Best Male Artist”. mwave. ngày 2 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2016.
  147. ^ “EXO get Daesang + Winners from the '25th Seoul Music Awards'!”. allkpop. ngày 14 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2016.
  148. ^ “Big Bang win 'Digital Single of the Year' + Winners from the '30th Golden Disk Awards' (Day 1)!”. allkpop. ngày 20 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]