Bước tới nội dung

Big Bang Alive Galaxy Tour 2012

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Big Bang Alive Galaxy Tour 2012
Áp phích quảng bá của Alive Galaxy Tour
Chuyến lưu diễn của Big Bang
Quốc giaToàn thế giới
AlbumAlive
Ngày bắt đầu2 tháng 3 năm 2012 (2012-03-02)
Ngày kết thúc27 tháng 1 năm 2013 (2013-01-27)[1]
Số buổi diễn41 tại châu Á
4 tại Bắc Mỹ
1 tại Nam Mỹ
2 tại châu Âu
48 tổng cộng
Doanh thu73 triệu đôla Mỹ[2]
Trang webalive.ygbigbang.com
Thứ tự chuyến lưu diễn của Big Bang
Big Show 2011 Big Bang Alive Galaxy Tour 2012
(2012-13)
Japan Dome Tour
(2013-14)

Big Bang Alive Galaxy Tour 2012 (hay còn có tên gọi Alive Tour) là chuyến lưu diễn toàn thế giới đầu tiên của ban nhạc nam Hàn Quốc Big Bang nhằm mục đích quảng bá cho EP tiếng Hàn thứ năm Alive (cũng như album phòng thu tiếng Nhật thứ tư cùng tên). Chuyến lưu diễn đi qua bốn châu lục bao gồm châu Á, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu và được đạo diễn bởi Laurieann Gibson.

Chuyến lưu diễn do Samsung GALAXY tài trợ. Tổng cộng đã có khoảng 800.000 lượt người hâm mộ toàn thế giới đã tới xem trực tiếp các buổi diễn của chuyến lưu diễn.[3]

Bối cảnh và chuẩn bị

[sửa | sửa mã nguồn]
Big Bang biểu diễn tại Singapore

Nhằm quảng bá cho EP tiếng Hàn thứ năm Alive và album phòng thu tiếng Nhật thứ tư cùng tên, lần lượt được phát hành vào các ngày 29 tháng 2 và 28 tháng 3 năm 2012, hãng thu âm YG Entertainment thông báo rằng Big Bang có ý định tổ chức một tour diễn toàn thế giới hợp tác với Live Nation.[4]

Biên đạo và đạo diễn Laurieann Gibson, người từng làm việc cùng Lady Gaga, được thuê làm đạo diễn và biên đạo của tour diễn.[5] Công ty thông tin nghe nhìn Possible Productions nhận trách nhiệm thiết kế phông nền sân khấu.[6] Họ muốn tạo dựng hình mẫu của "một thế giới tương lai ảm đạm được Big Bang cứu rỗi".[7] Ánh sáng, sân khấu và quá trình sản xuất do Leroy Bennett đảm nhận.[8] Chi phí cho hệ thống ánh sáng và sân khấu của tour diễn tốn khoảng 1,3 triệu đôla Mỹ.[9] Nhãn hiệu điện tử Samsung là nhà tài trợ chính thức của tour diễn, cung cấp các sản phẩm điện tử cho các thành viên trong đội ngũ tổ chức và biểu diễn.[10]

Các buổi biểu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Vé của các buổi biểu diễn bán hết nhanh chóng hơn mong đợi của Live Nation.[11] Tại Singapore, tất cả vé được bán hết ngay sau khi hệ thống bán vé mở cửa và ngay lập tức buộc ban tổ chức phải gia tăng thêm một buổi diễn do nhu cầu tăng cao. Tại Malaysia, trên 3.500 người hâm mộ xếp hàng trước phòng vé để cạnh tranh cơ hội có được tấm vé. Tại Đài Loan, tất cả 22.000 vé của 2 buổi biểu diễn bán hết chỉ trong vài giờ.[12] Tại Nhật Bản, Big Bang trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn ba buổi hòa nhạc tại các sân vận động mái vòm, bao gồm Tokyo Dome, Kyocera DomeFukuoka Dome.[13] Giá vé tại Hồng Kông có giá lên tới 1.680 đôla Hồng Kông (trên 200 USD).[14]

Do nhu cầu tăng vọt của người hâm mộ tại Hoa Kỳ, hai buổi diễn được tổ chức tại Los Angeles và New Jersey vào hai ngày 2 và 8 tháng 11.[12][15] The Orange County Register đưa ra báo cáo rằng giá vé dao động từ 50 tới 300 đôla Mỹ trong buổi diễn tại Honda Center, Los Angeles.[16] Alive Tour sau đó tiếp tục dừng chân tại Lima, Peru vào ngày 14 tháng 11 năm 2012.[17]

Tại vương quốc Anh tất cả vé cho buổi diễn tại Wembley Arena bán hết trong vòng một giờ đầu,[cần dẫn nguồn] khiến ban tổ chức phải tổ chức thêm một buổi nữa ngay sau buổi đầu tiên.[18][19]

Ý kiến đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Người hâm mộ Big Bang với cây gậy cổ vũ
Big Bang trên những chiếc Segway

Nhà báo của tờ The New York Times Jon Caramanica viết rằng Big Bang đã biểu diễn hơn chục ca khúc với số lượng trang phục nhiều nhất có thể, cũng như nhiều đạo cụ thú vị như những chiếc xe Segway và xe đạp thấp" trong "tour diễn ngắn ngủi nhưng ồn ào trên đất Mỹ".[20] Tác giả của Billboard K-Town Jeff Benjamin nhận định những khán giả đến với buổi biểu diễn được chứng kiến những màn nhảy breakdance và khả năng nhào lộn của Taeyang với những cú flip hay salto ngay trên sân khấu của buổi biểu diễn của nhóm tại Trung tâm PrudentialNew Jersey, và đánh giá màn trình diễn của Big Bang tại Mỹ là "thành công cho tất cả trên mọi khía cạnh".[21] Joseph Lapin của tờ báo có trụ sở tại California OC Weekly, người tham dự buổi diễn của nhóm tại Los Angeles, bình luận bầu không khí tại đây "gần như có thể sờ được vậy". Lapin kết luận, "Buổi diễn có sự hoài niệm, hồi tưởng về hip-hop của ngày xưa nhưng cũng có những cú hích về thương mại và làm mới hình ảnh của các nghệ sĩ nước ngoài... những chàng trai này, họ sẽ trở lại, và họ biết rằng mình sẽ trở thành những siêu sao thực sự".[22]

Nhà báo âm nhạc của The Guardian Caroline Sullivan khen ngợi Big Bang đã có một "mà trình diễn tuyệt hảo" tại Wembley Arena, Luân Đôn. Cô so sánh Big Bang với một số bạn nhạc phương Tây khác và cho rằng phong cách của Big Bang "sinh động hơn, âm thanh ồn ào hơn, vũ đạo sắc nét hơn".[23]

Radio Programas del Perú xếp buổi diễn của nhóm tại Peru là buổi diễn số một Nam Mỹ trong năm 2012, đánh bại các chuyến lưu diễn của JYJ, U-KISSMusic Bank tại Chile.[24]

Vào ngày 30 tháng 11 năm 2012, Big Bang giành giải "Guardian Angel Worldwide Performer" tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards 2012 cho chính chuyến lưu diễn của họ trong suốt năm 2012.

Danh sách bài hát biểu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách 1
  1. "Alive (Intro)"
  2. "Tonight" (Phiên bản Rock)
  3. "Hands Up"
  4. "Fantastic Baby"
  5. "How Gee"
  6. "Stupid Liar"
  7. "Knockout" (GD & TOP)
  8. "High High" (Phiên bản Rock) (GD & TOP)
  9. "Strong Baby" (Seungri)
  10. "What Can I Do" (Seungri)
  11. "Gara Gara Go"
  12. "Number 1"
  13. "Cafe" (Remix)
  14. "Bad Boy"
  15. "Ain't No Fun"
  16. "Love Dust"
  17. "Love Song"
  18. "Only Look At Me" / "Where U At" / "Wedding Dress" (Taeyang)
  19. "Wings" (Daesung)
  20. "Haru Haru" (Phiên bản acoustic)
  21. "Lies"
  22. "Last Farewell"

Encore:

  1. "Sunset Glow"
  2. "Heaven"
Danh sách 2
  1. "Alive (Intro)"
  2. "Tonight" (Phiên bản rock)
  3. "Hands Up"
  4. "Fantastic Baby"
  5. "How Gee"
  6. "Stupid Liar"
  7. "Knockout" (GD & TOP)
  8. "High High" (Phiên bản rock) (GD & TOP)
  9. "Strong Baby" (Seungri)
  10. "What Can I Do" (Seungri)
  11. "Gara Gara Go"
  12. "Number 1"
  13. "Cafe" (Remix)
  14. "Bad Boy"
  15. "Blue"
  16. "Love Dust"
  17. "Love Song"
  18. "Only Look At Me" / "Where U At" / "Wedding Dress" (Taeyang)
  19. "Wings" (Daesung)
  20. "Haru Haru" (Phiên bản acoustic)
  21. "Lies"
  22. "Last Farewell"

Encore:

  1. "Sunset Glow"
  2. "Heaven"
Danh sách 3
  1. "Alive (Intro)"
  2. "Tonight" (Phiên bản rock)
  3. "Hands Up"
  4. "Fantastic Baby"
  5. "How Gee"
  6. "Stupid Liar"
  7. "Knockout" (GD & TOP)
  8. "High High" (GD & TOP)
  9. "Strong Baby" (Seungri)
  10. "What Can I Do" (Seungri)
  11. "Gara Gara Go"
  12. "Number 1"
  13. "Cafe" (Remix)
  14. "Crayon" (G-Dragon]])
  15. "One of a Kind" (G-Dragon)
  16. "Bad Boy"
  17. "Blue"
  18. "Love Song"
  19. "Monster"
  20. "Feeling"
  21. "Only Look At Me" (Taeyang)
  22. "Wedding Dress" (Taeyang)
  23. "Wings" (Daesung)
  24. "Haru Haru" (Phiên bản acoustic)
  25. "Lies"
  26. "Last Farewell"

Encore:

  1. "Heaven"
  2. "Bad Boy"
  3. "Fantastic Baby"
  4. "Feeling"

Ngày diễn

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày thành phố quốc gia Địa điểm Lượng khán giả[25]
Châu Á
2 tháng 3 năm 2012 Seoul Hàn Quốc Nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic 39.000
3 tháng 3 năm 2012
4 tháng 3 năm 2012
17 tháng 5 năm 2012 Nagoya Nhật Bản Nippon Gaishi Hall 18.000
18 tháng 5 năm 2012
25 tháng 5 năm 2012 Yokohama Yokohama Arena 36.000
26 tháng 5 năm 2012
27 tháng 5 năm 2012
31 tháng 5 năm 2012 Osaka Hội trường Osaka-jō 40.000
1 tháng 6 năm 2012
2 tháng 6 năm 2012
3 tháng 6 năm 2012
16 tháng 6 năm 2012 Saitama Saitama Super Arena 36.000
17 tháng 6 năm 2012
23 tháng 6 năm 2012 Fukuoka Trung tâm Hội nghị Fukuoka 20.000
24 tháng 6 năm 2012
21 tháng 7 năm 2012 Thượng Hải Trung Quốc Mercedes-Benz Arena 10.000
28 tháng 7 năm 2012 Quảng Châu Guangzhou International Sports Arena 10.000
4 tháng 8 năm 2012 Bắc Kinh Trung tâm MasterCard 10.000
28 tháng 9 năm 2012 Singapore Singapore Sân vận động trong nhà Singapore 20.000
29 tháng 9 năm 2012
5 tháng 10 năm 2012 Băng Cốc Thái Lan Impact Arena 20.000
6 tháng 10 năm 2012
12 tháng 10 năm 2012 Jakarta Indonesia Sân vận động Quốc tế Mata Elang 26.000
13 tháng 10 năm 2012
20 tháng 10 năm 2012 Đài Bắc Đài Loan Nhà thi đấu Đài Bắc 26.000
21 tháng 10 năm 2012
24 tháng 10 năm 2012 Manila Philippines Mall of Asia Arena 13.000
27 tháng 10 năm 2012 Kuala Lumpur Malaysia Sân vận động Merdeka 18.000
Bắc Mỹ
2 tháng 11 năm 2012 Anaheim Hoa Kỳ Trung tâm Honda 24.000
3 tháng 11 năm 2012
8 tháng 11 năm 2012 Newark Trung tâm Prudential 24.000
9 tháng 11 năm 2012
Nam Mỹ
14 tháng 11 năm 2012 Lima Peru Jockey Club del Perú 12.000
Châu Á
23 tháng 11 năm 2012 Osaka Nhật Bản Osaka Dome 100.000
24 tháng 11 năm 2012
5 tháng 12 năm 2012 Tokyo Tokyo Dome 55.000
8 tháng 12 năm 2012 Hồng Kông Hồng Kông AsiaWorld–Arena 30.000
9 tháng 12 năm 2012
10 tháng 12 năm 2012
Châu Âu
14 tháng 12 năm 2012 Luân Đôn Anh Wembley Arena 24.000
15 tháng 12 năm 2012
Châu Á
22 tháng 12 năm 2012 Fukuoka Nhật Bản Fukuoka Dome 50.000
12 tháng 1 năm 2013 Osaka Osaka Dome 100.000
13 tháng 1 năm 2013
25 tháng 1 năm 2013 Seoul Hàn Quốc Nhà thi đấu Thể dục dụng cụ Olympic 39.000
26 tháng 1 năm 2013
27 tháng 1 năm 2013
Tổng 800.000

Thành phần nhân sự

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nghệ sĩ chính: Big Bang
  • Tổng đạo diễn: Laurieann Gibson
  • Thiết kế sân khấu và ánh sáng: Leroy Bennett
  • Âm thanh: Ken Van Druten
  • Bố trí và trình chiếu hình ảnh: Possible Productions
  • Đạo diễn âm nhạc, keyboard: Gil Smith II
  • Ghita: Justin Lyons
  • Programmer: Adrian Porter
  • Keyboard: Dante "Inferno" Jackson
  • Bass: Omar Dominick
  • Trống: Bennie "BrIIghtReD" Rodgers II
  • Vũ công: Nhóm nhảy HiTech và Crazy Girls
  • Quản lý: YG Entertainment
  • Tổ chức lưu diễn: Live Nation Hàn Quốc
  • Quản lý lưu diễn: Shirley Hong
  • Tài trợ: Samsung

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ (tiếng Anh)“YG Entertainment warns against fraudulent ticket sales for Big Bang's encore concert in Seoul”. Allkpop. ngày 29 tháng 12 năm 2012.
  2. ^ (tiếng Anh)Economic Daily (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “BIG BANG'S WORLD TOUR – 12 COUNTRIES, 800,000 AUDIENCE AND 80 BILLION WON REVENUE”. Economic Daily. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2015.
  3. ^ (tiếng Anh)Benjamin, Jeff. “BIGBANG Reflect on Their World Tour in Exclusive Q&A”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  4. ^ (tiếng Anh)allkpop (ngày 6 tháng 2 năm 2012). “Big Bang to hold 'ALIVE TOUR 2012′ around the world through Live Nation!”. allkpop.com. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  5. ^ (tiếng Anh)Chrissy Mahlmeister (ngày 14 tháng 3 năm 2012). “Big Bang Pairs Up With Laurieann Gibson”. style.mtv.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  6. ^ Figgie (ngày 3 tháng 4 năm 2012). “BIGBANG, American Idol, Mau5trap, Nicki Minaj & Kid's Choice Awards”. possibleproductions.com. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  7. ^ (tiếng Anh)“BIGBANG ALIVE GALAXY TOUR 2012”. possibleproductions.com. tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  8. ^ (tiếng Anh)“His Résumé”. http://leroybennett.com/resume.html. 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012. Liên kết ngoài trong |publisher= (trợ giúp)
  9. ^ “YG ENTERTAINMENT AND LIVE NATION ENTERTAINMENT PRESENT BIGBANG Alive Galaxy Tour 2012 in Malaysia”. redtix.airasia.com. 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  10. ^ (tiếng Anh)“Big Bang to Collaborate with Samsung Electronics for "BIGBANG ALIVE GALAXY TOUR 2012″”. soompi.com. ngày 6 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
  11. ^ “BigBang theory”. The Jakarta Post. ngày 4 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  12. ^ a b (tiếng Anh)“Korean Pop Group Adds 2nd Newark Show After Original Date Sells Out | njtoday.net – Everything New Jersey”. Njtoday.net. ngày 1 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  13. ^ “Big Bang Frist Korean Artist Performing 3-Dome Concert in Japan”. KpopStarz. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  14. ^ (tiếng Trung)“韩国组合BIGBANG首度来港开唱掀抢票狂潮 文娱滚动 南方网”. Ent.southcn.com. ngày 7 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  15. ^ “Big Bang Adds 2 More Concert Dates in America Due to Heavy Demand - Yahoo! OMG! Philippines”. Ph.omg.yahoo.com. ngày 4 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.
  16. ^ [1]
  17. ^ (tiếng Tây Ban Nha)3 tháng 10 năm 2012-big-bang-enloquece-a-sus-fanaticos-con-el-alive-galaxy-tour-noticia_527797.html “Big Bang enloquece a sus fanáticos con el Alive Galaxy Tour | RPP NOTICIAS” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Rpp.com.pe. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2012.[liên kết hỏng]
  18. ^ [2]
  19. ^ (tiếng Anh)“Bigbang first London Show sold out, second London Show added”. altsounds.com. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2012.
  20. ^ CARAMANICA, JON (ngày 9 tháng 11 năm 2012). “BigBang Performs at the Prudential Center”. The New York Times. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2012.
  21. ^ (tiếng Anh)Benjamin, Jeff. “BIGBANG in America: Behind the Scenes With the K-Pop Boy Wonders”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2012.
  22. ^ Lapin, Joseph. “BIG BANG - Honda Center - ngày 3 tháng 11 năm 2012”. OC Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  23. ^ (tiếng Anh)Sullivan, Caroline (16-21-2012). “Big Bang – review”. London: The Guardian. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  24. ^ (tiếng Tây Ban Nha)Lunes. 31 tháng 12 năm 2012-concierto-de-big-bang-en-lima-elegido-el-mejor-en-sudamerica-en-2012-noticia_553663.html “Concierto de Big Bang en Lima elegido el mejor en Sudamérica en 2012” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Radio Programas del Perú. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  25. ^ “BIG BANG ALIVE GALAXY TOUR 2012 'THE FINAL'. YG-Life. ngày 23 tháng 11 năm 2012.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]