Bước tới nội dung

Rare (album của Selena Gomez)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rare
Bìa album phiên bản cao cấp
Album phòng thu của Selena Gomez
Phát hành10 tháng 1 năm 2020 (2020-01-10)
Thu âm2016–2019
Thể loại
Thời lượng41:53
Hãng đĩaInterscope
Sản xuất
Thứ tự album của Selena Gomez
Revival
(2015)
Rare
(2020)
Revelación
(2021)
Đĩa đơn từ Rare
  1. "Lose You to Love Me"
    Phát hành: 23 tháng 10 năm 2019
  2. "Look at Her Now"
    Phát hành: 24 tháng 10 năm 2019
  3. "Rare"
    Phát hành: 10 tháng 1 năm 2020[1]
  4. "Boyfriend"
    Phát hành: 9 tháng 4 năm 2020

Rare là album phòng thu solo thứ ba của ca sĩ người Mỹ Selena Gomez.[2][3] Nó được phát hành vào ngày 10 tháng 1 năm 2020, thông qua Interscope Records. Là nhà sản xuất điều hành, Gomez đã làm việc với nhiều nhà sản xuất, bao gồm Ian Kirkpatrick, Mike Dean, Jason Evigan, Finneas, Mattman & Robin, Sir Nolan, The Monsters and the Strangerz và David Pramik. Gomez tuyên bố rằng album này là "nhật ký của cô ấy trong vài năm qua".[4] Đây là một bản thu popdance, với những ảnh hưởng từ R&B, nhạc popnhạc điện tử Latin.

Phiên bản tiêu chuẩn của album có sự hợp tác với 6lack và Kid Cudi. Rare trước khi ra mắt thì đã phát hành đĩa đơn đầu tiên từ album: " Lose You to Love Me" vào ngày 23 tháng 10 năm 2019 và đứng đầu Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của Gomez tại Mỹ. "Look at Her Now" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá vào ngày hôm sau, đạt vị trí thứ 27 trên Hot 100. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, album cùng bài hát chủ đề cũng là đĩa đơn thứ 3 từ album ra mắt và lọt top 30 tại Hoa Kỳ. Phiên bản cao cấp độc quyền khác của Rare bao gồm năm đĩa đơn độc lập của Gomez được phát hành trước album: "Bad Liar", "Fetish" kết hợp với Gucci Mane, "It Ain't Me" với Kygo, "Back to You" và "Wolves" với Marshmello.

Sau khi phát hành, Rare đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, nhiều người đã gọi nó là "album hay nhất cho đến nay" của Gomez, trong khi khen sản xuất của nó, nhưng việc tìm ra bài hát "dễ dàng". Album ra mắt ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Hoa Kỳ, trở thành album số một thứ ba liên tiếp của Gomez tại Hoa Kỳ. Nó cũng ra mắt ở vị trí số một ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Canada, Na Uy, Mexico, Bỉ, Bồ Đào Nha và Scotland; trong khi lọt vào top ba của nhiều quốc gia khác, bao gồm Vương quốc Anh, Đức, New Zealand, Tây Ban Nha và Ba Lan.

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát biểu trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11 năm 2019 cho Apple Music về chủ đề album phòng thu sắp phát hành của cô Rare, Gomez thừa nhận rằng đang thu âm các bài hát mới. Cô cũng nói rằng các bài hát trong danh sách nhạc đã phối hợp tốt với nhau, sau khi sắp xếp chúng theo thứ tự.[5]

Gomez xuất hiện trên chương trình radio On Air với Ryan Seacrest và nói với Seacrest rằng cô ấy có "một triệu ý tưởng và nó sẽ trở nên mát mẻ hơn và nó sẽ mạnh mẽ hơn và sẽ tốt hơn." [6] Sau đó, cô nói với Jimmy Fallon trên The Tonight Show rằng album sẽ có "cảm giác pop mạnh mẽ", và cô đã thử nghiệm với guitar điện. Cô ấy cũng nói với Fallon rằng cô ấy đã mất "bốn năm nay để thậm chí cảm thấy ở một nơi tốt với album này." [7]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Rare chủ yếu là một bản nhạc pop [8]nhạc dance, thí nghiệm với nhiều thể loại, chẳng hạn như R&B,[9] nhạc điện tử, funk-pop,[10] reggaeton,[11] alternative rock,[12]. Các chủ đề chính là "tình yêu, mất mát và hẹn hò". Bản thân Gomez tuyên bố rằng album là "trung thực, trao quyền và nâng cao tinh thần" [13], trong khi thông điệp chính của nó là "tự yêu thương, chấp nhận và trao quyền".[14] Cô cũng nói thêm rằng các bài hát trên Rare là "âm nhạc trung thực nhất tôi từng tạo ra".[15]

Phiên bản tiêu chuẩn của album chứa 13 bài hát.

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Album lần đầu tiên được công bố và đặt tên trên tài khoản Instagram của Gomez,[16] nơi cô tiết lộ ảnh bìa và bao gồm một đoạn của ca khúc chủ đề.

Phiên bản tiêu chuẩn của album phòng thu đã được quảng bá và trước khi phát hành "Lose You to Love Me" phát hành ngày 23 tháng 10 năm 2019 và "Look at Her Now" vào ngày 24 tháng 10 năm 2019.[17][18] Vào ngày 24 tháng 11 năm 2019, Gomez đã biểu diễn "Lose You to Love Me" và "Look at Her Now" tại American Music Awards 2019 để quảng bá album. Cô cũng xuất hiện trên chương trình The Tonight Show Starring Jimmy Fallon để nói về việc phát hành Rare.[7]

Ngoài ra, "Dance Again" đã được lên kế hoạch sử dụng để quảng bá cho chương trình Giải đấu NCAA năm 2020 của CBS Sports và Turner Sports. Tuy nhiên, bài hát không bao giờ được sử dụng, vì tourney đã bị hủy vì lo ngại về sự bùng phát đại dịch COVID-19.

Đánh giá

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic76/100[19]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[20]
Entertainment WeeklyB+[21]
The Independent[22]
NME[23]
Pitchfork6.8/10[24]
Rolling Stone[25]
Slant Magazine[26]

Rare nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, nhiều nhà phê bình coi đây là album hay nhất trong sự nghiệp của Gomez cho đến nay. Tại Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album nhận được số điểm là 76 dựa trên 12 đánh giá, đồng nghĩa với mức đánh giá tích cực.[19]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Album ra mắt tại hạng 1 tại Mỹ trên Billboard 200, trở thành album số một tại Hoa Kỳ thứ ba của Gomez và album đầu tiên được phát hành trong thập niên 2020 để đứng đầu bảng xếp hạng. Nó đã tiêu thụ được 112.000 đơn vị tương đương album, bao gồm 53.000 doanh số album thuần túy. Rare trở thành album quán quân bảng xếp hạng thứ ba liên tiếp của cô.[27] Ở Úc, album đã ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng album ARIA trở thành album số một đầu tiên của Gomez ở nước này. Album này cũng trở thành album số một đầu tiên của cô tại các quốc gia Argentina, Bỉ, Litva, Đài Loan và Scotland. Tại Vương quốc Anh, album đã ra mắt ở vị trí thứ hai sau Divineely Uninspired to Hellish Extent của Lewis Capaldi, trở thành album đỉnh cao đầu tiên và cao nhất của cô ở nước này. Album đã bán được 286.100 bản tại Mỹ kể từ khi phát hành, bao gồm 75.279 doanh số thuần túy.[28]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Rare – Phiên bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Rare"
3:40
2."Dance Again"2:50
3."Look at Her Now"
2:42
4."Lose You to Love Me"
  • Gomez
  • Tranter
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Michaels
3:26
5."Ring"
2:28
6."Vulnerable"
3:12
7."People You Know"
3:14
8."Let Me Get Me"
  • Gomez
  • Tranter
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Ailin
3:09
9."Crowded Room" (hợp tác với 6lack)
3:06
10."Kinda Crazy"
  • Nedler
  • Fogelmark
  • Yacoub
  • Rice[b]
  • Schoudel[b]
3:32
11."Fun"
  • Ojivolta
  • Schoudel[b]
3:09
12."Cut You Off"
3:02
13."A Sweeter Place" (hợp tác Kid Cudi)
4:23
Tổng thời lượng:41:53
Rare – Phiên bản Target và Phiên bản độc quyền tại Nhật Bản[29][30][31]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Bad Liar"
  • Kirkpatrick
  • Rice[b]
3:34
15."Fetish" (hợp tác với Gucci Mane)3:06
16."It Ain't Me" (với Kygo)
3:40
17."Back to You"
  • Gomez
  • Parrish Warrington
  • Diederik Van Elsas
  • Allen
  • Micah Premnath
  • Kirkpatrick
  • Trackside
  • Rice[b]
3:30
18."Wolves" (với Marshmello)
  • Marshmello
  • Watt
3:17
Tổng thời lượng:59:00
Rare – Phiên bản đĩa than và Phiên bản bổ sung trên các nền tảng kỹ thuật số & streaming[32][33][34]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Feel Me"
  • Phil Phever
  • McKenzie
  • J Mills
3:46
Tổng thời lượng:45:38
Rare – Phiên bản cao cấp[35]
STTNhan đềSáng tácProducer(s)Thời lượng
1."Boyfriend"
  • Gomez
  • Michaels
  • Tranter
  • Jon Wienner
  • Sam Homaee
2:41
2."Lose You to Love Me"
  • Gomez
  • Michaels
  • Tranter
  • Larsson
  • Fredriksson
3:26
3."Rare"
  • Gomez
  • Love
  • McLaughlin
  • Lambroza
  • Rosen
3:40
4."Souvenir"
  • Gomez
  • Kirkpatrick
  • Love
  • Douglas
2:41
5."Look at Her Now"
  • Gomez
  • Michaels
  • Tranter
  • Kirkpatrick
2:42
6."She"
  • Gomez
  • Tranter
  • Wienner
  • Homaee
  • Emenike
  • The Roommates[a]
2:52
7."Crowded Room" (featuring 6lack)
  • Gomez
  • Lambroza
  • Rexha
  • Wilcox
  • Valentine
3:06
8."Vulnerable"
  • Gomez
  • Allen
  • Bellion
  • J. Johnson
  • S. Johnson
  • The Monsters & Strangerz
  • Bellion
  • Schoudel[b]
  • Gian Stone[e]
3:12
9."Dance Again"
  • Gomez
  • Tranter
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Ailin
2:50
10."Ring"
  • Gomez
  • Lambroza
  • Douglas
  • Frost
  • Isaac
  • Ciente
2:28
11."A Sweeter Place" (featuring Kid Cudi)
  • Gomez
  • Cudi
  • Love
  • Emenike
  • Kirkpatrick
4:23
12."People You Know"
  • Gomez
  • Jomphe-Lepine
  • Hope
  • Jones
  • Aaron
  • Evigan
3:14
13."Cut You Off"
  • Gomez
  • Pramik
  • Owen
  • Angelides
3:02
14."Let Me Get Me"
  • Gomez
  • Tranter
  • Larsson
  • Fredriksson
  • Ailin
3:09
15."Kinda Crazy"
  • Gomez
  • Tranter
  • Yacoub
  • Thompson
  • Nedler
  • Fogelmark
  • Nedler
  • Fogelmark
  • Yacoub
  • Rice[b]
  • Schoudel[b]
3:32
16."Fun"
  • Gomez
  • Michaels
  • Harris
  • Cubina
  • Williams
  • Ojivolta
  • Schoudel[b]
3:09
17."Feel Me"
  • Gomez
  • Scinta
  • Shaouy
  • Mills
  • McKenzie
  • Malik
  • Kasher
  • Golan
  • Phever
  • McKenzie
  • J Mills
3:46
Tổng thời lượng:53:55
Rare – Phiên bản DVD đặc biệt Nhật Bản[30]
STTNhan đềDirector(s)Thời lượng
1."Lose You to Love Me" (video âm nhạc)Sophie Muller3:26
2."Lose You to Love Me" (behind the scenes) 3:08
3."Look at Her Now" (video âm nhạc)Muller2:44
4."Look at Her Now" (behind the scenes) 3:07
Tổng thời lượng:12:25
  • ^[a] biểu thị một nhà sản xuất và nhà sản xuất giọng hát
  • ^[b] biểu thị một nhà sản xuất giọng hát
  • ^[c] biểu thị một nhà sản xuất bổ sung
  • ^[d] biểu thị một người đồng sản xuất
  • ^[e] biểu thị một nhà sản xuất giọng hát bổ sung

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Địa điểm thu âm

[sửa | sửa mã nguồn]

Giọng hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhạc cụ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Jon Bellion – instrumentation (6)
  • Billboard – instrumentation (7)
  • Carl Bodell – trumpet (10)
  • David Bukovinszky – cello (4)
  • Mattais Bylund – string synthesizer, string arrangement, string editing, string recording (4)
  • Kid Cudi – instrumentation (13)
  • Mike Dean – instrumentation (13)
  • Jason Evigan – instrumentation (7)
  • Jake Faun – instrumentation (1), guitar (5)
  • Finneas – percussion, synths, strings, bass guitar (4)
  • Kristoffer Fogelmark – keyboards, drums, instrumentation, guitar, bass (10)
  • Alex Hope – instrumentation (7)
  • Mattais Johansson – violin (4)
  • Ian Kirkpatrick – instrumentation (3, 13)
  • Johan Lenox – string composition, string arrangement (5)
  • Mattman & Robin – drums (2, 8), guitar (2), percussion, bass (2, 4, 8), piano, synths (2, 4), 808, organ, strings (4), keyboards, claps, harp (8)
  • Albin Nedler – keyboards, drums, instrumentation, guitar (10)
  • Sir Nolan – instrumentation (1, 9), percussion (5)
  • Oladipo Omishore – instrumentation (13)
  • Henry Oyekanmi – percussion (5)
  • David Pramik – instrumentation, Fender Stratocaster, Gibson Les Paul (12)
  • Patrick Reynolds – instrumentation (13)
  • Simon Says – instrumentation (1)
  • The Monsters and the Strangerz – instrumentation (6)
  • Mark Williams – instrumentation (11)
  • Rami Yacoub – keyboards, drums, instrumentation (10)

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Selena Gomez – executive production
  • Jon Bellion – production (6)
  • Kid Cudi – production (13)
  • Sean Douglas – production (5)
  • Jason Evigan – production (7)
  • Kristoffer Fogelmark – production (10)
  • Ian Kirkpatrick – production, vocal production (3), co-production (13)
  • Mattman & Robin – production, vocal production (2, 4, 8)
  • Albin Nedler – production (10)
  • Sir Nolan – production, vocal production (1, 5, 9)
  • Ojivolta – production (11)
  • David Pramik – production (12)
  • Simon Says – production, vocal production (1), additional production (5)
  • The Monsters and the Strangerz – production (6)
  • Rami Yacoub – production (10)
  • Finneas – additional production (4)
  • Johan Lenox – additional production (5)
  • Billboard – co-production (7)
  • Mike Dean – co-production (13)
  • Alex Hope – co-production (7)
  • Oladipo Omishore – co-production (13)
  • Patrick Reynolds – co-production (13)
  • Benjamin Rice – vocal production (9-10, 12)
  • Bart Schoudel – vocal production (2-4, 6-8, 10-11)
  • Gian Stone – additional vocal production (6)

Kỹ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Cory Bice – engineering (2, 8)
  • Raul Cubina – engineering, programming (11)
  • Ryan Dulude – engineering (8), assistant engineering (4)
  • Rafael "Come2Brazil" Fadul – engineering (7)
  • John Hanes – engineering (2, 6, 8), mix engineering (4)
  • Sam Holland – engineering (8)
  • Stefan Johnson – engineering (6)
  • Ian Kirkpatrick – engineering (3, 13)
  • Jeremy Lertola – engineering (2, 8)
  • Mattman & Robin – engineering (4), programming (2, 4, 8)
  • Sir Nolan – engineering (1, 5, 9), programming (5)
  • David Pramik – engineering (12)
  • Benjamin Rice – engineering (1, 9-10, 12)
  • Simon Says – engineering (1)
  • Bart Schoudel – engineering (1-8, 10-11, 13)
  • William J. Sullivan – engineering (13)
  • Mark Williams – engineering, programming (11)
  • Bo Bodnar – assistant engineering (13)
  • Andrew Boyd – assistant engineering (3, 6, 8, 10-11, 13)
  • Kevin Brunhober – assistant engineering (2, 5, 7-8, 11, 13)
  • Lionel Crasta – assistant engineering (7)
  • Gavin Finn – assistant engineering (4)
  • Chris Kahn – assistant engineering (13)
  • Sedrick Moore II – assistant engineering (3, 12)
  • Mick Raskin – assistant engineering (2, 7, 10)
  • Jeremy Tomlinson – assistant engineering (5)
  • Finneas – programming (4)
  • Kristoffer Fogelmark – programming (10)
  • Albin Nedler – programming (10)
  • Rami Yacoub – programming (10)
  • Ben Dotson – post production vocal and sound editing (11)
  • Jon Castelli – mixing (11)
  • Serban Ghenea – mixing (2, 4, 6, 8)
  • Manny Marroquin – mixing (3, 9)
  • Tony Maserati – mixing (1, 5, 7, 10, 12-13)
  • Miles Comaskey – mix engineering (1), assistant mix engineering (10, 12)
  • Josh Deguzman – mix engineering (11)
  • Chris Galland – mix engineering (3)
  • Scott Desmarais – assistant mix engineering (3)
  • Robin Florent – assistant mix engineering (3)
  • Jeremie Inhaber – assistant mix engineering (3)
  • Najeeb Jones – assistant mix engineering (5, 7)
  • David Kim – assistant mix engineering (9, 13)
  • Dale Beckermastering (11)
  • Chris Gehringer – mastering (1-10, 12-13)
  • Will Quinnell – mastering (2-10, 12-13)

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Petra Collins - nhiếp ảnh
  • Max Angles - thiết kế
  • Dina Hovsepian - hướng nghệ thuật

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng (2020) Vị trí cao nhất
Argentine Albums (CAPIF)[36] 1
Australian Albums (ARIA)[37] 1
Album Áo (Ö3 Austria)[38] 3
Album Bỉ (Ultratop Vlaanderen)[39] 1
Album Bỉ (Ultratop Wallonie)[40] 3
Album Canada (Billboard)[41] 1
Album Cộng hòa Séc (ČNS IFPI)[42] 2
Album Đan Mạch (Hitlisten)[43] 5
Album Hà Lan (Album Top 100)[44] 2
Estonian Albums (Eesti Ekspress)[45] 1
Album Phần Lan (Suomen virallinen lista)[46] 5
French Albums (SNEP)[47] 6
Album Đức (Offizielle Top 100)[48] 3
Greek Albums (IFPI)[49] 3
Album Hungaria (MAHASZ)[50] 28
Album Ireland (OCC)[51] 4
Italian Albums (FIMI)[52] 6
Japan Hot Albums (Billboard Japan)[53] 30
Album Nhật Bản (Oricon)[54] 20
Lithuanian Albums (AGATA)[55] 1
Mexican Albums (AMPROFON)[56] 1
New Zealand Albums (RMNZ)[57] 2
Album Na Uy (VG-lista)[58] 1
Album Ba Lan (ZPAV)[59] 3
Album Bồ Đào Nha (AFP)[60] 1
Album Scotland (OCC)[61] 1
Slovak Albums (ČNS IFPI)[62] 2
Spanish Albums (PROMUSICAE)[63] 3
Swedish Albums (Sverigetopplistan)[64] 7
Album Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[65] 3
Album Anh Quốc (OCC)[66] 2
US Billboard 200[27] 1
US Rolling Stone Top 200[67] 1

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Phiên bản định dạng Nhãn Ref.
Nhiều quốc gia Ngày 10 tháng 1 năm 2020
  • Standard
  • deluxe
Interscope [68][69]
Ngày 21 tháng 2 năm 2020 Bonus track Vinyl [70]
Ngày 28 tháng 2 năm 2020
  • Digital download
  • streaming

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Rowley, Glenn (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez Is Right at Home Among Rainbows and Butterflies in Delightful 'Rare' Video: Watch”. Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  2. ^ Curto, Justin (21 tháng 11 năm 2019). “Selena Gomez Will Start 2020 Off Right by Releasing Her New Album”. Vulture. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2019.
  3. ^ @ (ngày 12 tháng 12 năm 2019). “Can't believe I'm revealing the art and title for my new album RARE, out January 10th. It's the most honest music I've ever made and I can't wait for you to hear my heart. 🖤 You can preorder RARE now ✨ smarturl.it/RARESG” (Tweet). Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019 – qua Twitter.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ Gomez, Selena [@] (ngày 21 tháng 11 năm 2019). “You can now preorder my new album, out ngày 10 tháng 1 năm 2020. This album is my diary from the past few years and I can't wait for you to hear it. Title, art and track list coming soon” (Tweet). Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019 – qua Twitter.
  5. ^ Paige, Gawley (ngày 21 tháng 11 năm 2019). “Selena Gomez Reveals Her New Album's Release Date”. Entertainment Tonight. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  6. ^ Marquina, Sierra (ngày 24 tháng 10 năm 2019). “Selena Gomez Embraces New Chapter, Teases 'Cooler, Stronger, Better' Album | Ryan Seacrest | On Air with Ryan Seacrest”. Ryan Seacrest. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  7. ^ a b Bailey, Alyssa (ngày 21 tháng 11 năm 2019). “Selena Gomez Finally Announced Her Album Release Date”. Elle. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  8. ^ Aswad, Jem (11 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez's 'Rare': Album Review”. Variety (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2020.
  9. ^ Luckhurst, Phoebe (ngày 11 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez - Rare review: Polished break-up album ditches self-indulgence for killer pop”. Evening Standard. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  10. ^ Lipshutz, Jason (ngày 14 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez Has Found Peace With 'Rare': 'I'm in the Happiest Place I've Ever Been in My Life'. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2020.
  11. ^ Arielle Gordon, Eden (ngày 11 tháng 1 năm 2020). “Do I Dislike Selena Gomez's "Rare" Because I Hate Women?”. Popdust. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  12. ^ Wass, Mike (ngày 13 tháng 1 năm 2020). “Album Review: Selena Gomez's 'Rare' Is A Pop Revelation”. Idolator. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2020.
  13. ^ @selenagomez (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Honest, empowering and uplifting”. Twitter. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  14. ^ @selenagomez (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Self love, acceptance and empowerment 💖”. Twitter. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  15. ^ Shaffer, Claire (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez Shares Rainbow Music Video for Title Track of 'Rare'. Rolling Stone. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2020.
  16. ^ “Selena Gomez on Instagram: "✨💖RARE💖✨" – qua Instagram.
  17. ^ Kaufman, Gil (ngày 18 tháng 10 năm 2019). “We Finally Know When We'll Hear New Selena Gomez Music”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
  18. ^ Stavropoulos, Laura (ngày 18 tháng 10 năm 2019). “Selena Gomez Reveals Cover Of New Single "Lose You To Love Me". udiscovermusic.com. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
  19. ^ a b “Rare by Selena Gomez Reviews and Tracks”. Metacritic. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020.
  20. ^ Sendra, Tim. Rare - Selena Gomez”. AllMusic. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  21. ^ Greenblatt, Leah (ngày 9 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez's Rare is a danceable lesson in self-love and acceptance”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  22. ^ Pollard, Alexandra (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez review, Rare: Moments of ecstasy and pathos never quite live up to the singer's gold standards”. The Independent.
  23. ^ Daly, Rhian (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez – 'Rare': the quietly confident star wrestles back her own narrative”. NME. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  24. ^ Moreland, Quinn (ngày 14 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez: Rare Album Review”. Pitchfork.
  25. ^ Spanos, Brittany (ngày 10 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez Moves Past Her Pain on the Resiliently Upbeat 'Rare'. Rolling Stone. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ Ordaz, Sophia (ngày 14 tháng 1 năm 2020). “Review: Selena Gomez's Rare Is Spotty in Its Attempts at Authenticity”. Slant Magazine. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 21 tháng 1 năm 2020). “Selena Gomez Earns Third No. 1 Album on Billboard 200 Chart With 'Rare'. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ Billboard Sales + Rolling Stone Chart Sales (Check Following Weeks After Linked Week)
  29. ^ “Selena Gomez – Rare (Target Exclusive, CD)”. Target. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
  30. ^ a b “Rare [w/ DVD, Limited Edition] Selena Gomez CD Album”. CDJapan. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2019.
  31. ^ “Rare (Deluxe Edition) | Music”. JB Hi-Fi. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2020.
  32. ^ “Rare (Bonus Track Version) by Selena Gomez”. Apple Music. ngày 28 tháng 2 năm 2020.
  33. ^ “Selena Gomez - Rare - LP”. Rough Trade. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2019.
  34. ^ “Selena Gomez Rare LP”. Elusive Disc. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2019.
  35. ^ Rare (Deluxe) / Selena Gomez”. Tidal. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2020.
  36. ^ "Rare" de Selena Gomez se quedó con el primer puesto en la semana del 13 al 20 de enero”. Diario de cultura (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  37. ^ “ARIA Australian Top 50 Albums”. Australian Recording Industry Association. ngày 20 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  38. ^ “Longplay Charts vom 26. Jänner 2020”. Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
  39. ^ "Ultratop.be – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  40. ^ "Ultratop.be – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  41. ^ “Selena Gomez Has This Week's No. 1 Album”. FYIMusicNews. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  42. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 202003 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  43. ^ “Hitlisten.NU – Album Top-40 Uge 2, 2020”. Hitlisten. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  44. ^ "Dutchcharts.nl – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  45. ^ “ALBUMID TIPP-40”. Eesti Ekspress. ngày 19 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  46. ^ "Selena Gomez: Rare" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2020.
  47. ^ “Top Albums (Week 3, 2020)” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  48. ^ "Offiziellecharts.de – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
  49. ^ “Official IFPI Charts – Top-75 Albums Sales Chart (Week: 4/2020)”. IFPI Greece. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2020.
  50. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2020. 3. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
  51. ^ "Official Irish Albums Chart Top 50". Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  52. ^ “Album – Classifica settimanale WK 3 (dal 10.1.2020 al 16.1.2020)” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  53. ^ “Billboard Japan Hot Albums 2020/1/20”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2020.
  54. ^ 3 tháng 2 năm 2020/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 3 tháng 2 năm 2020" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2020.
  55. ^ “2020 3-os savaitės klausomiausi (TOP 100)” (bằng tiếng Litva). AGATA. ngày 17 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  56. ^ “Top Album - Semanal (del 17 al 23 de Enero de 2020)” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2020.
  57. ^ “NZ Top 40 Albums Chart”. Recorded Music NZ. ngày 20 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  58. ^ “VG-lista – Topp 40 Album uke 3, 2020”. VG-lista. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  59. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
  60. ^ "Portuguesecharts.com – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  61. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  62. ^ “SK – Albums – Top 100: Selena Gomez – Rare”. ČNS IFPI. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  63. ^ “Top 100 Albumes” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  64. ^ “Veckolista Album, vecka 3”. Sverigetopplistan. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  65. ^ "Swisscharts.com – Selena Gomez – Rare" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2020.
  66. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2020.
  67. ^ “Rolling Stone Top 200 Albums”. Rolling Stone. ngày 16 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2020.
  68. ^ Rare by Selena Gomez on Apple Music”. Apple Music. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2019.
  69. ^ “Signed CD + Digital Album”. Selena Gomez Official Shop. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.
  70. ^ “Exclusive Vinyl + Digital Album”. Selena Gomez Official Shop. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2019.