Bước tới nội dung

Nemanthias bartlettorum

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nemanthias bartlettorum
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Serranidae
Chi: Nemanthias
Loài:
N. bartlettorum
Danh pháp hai phần
Nemanthias bartlettorum
(Randall & Lubbock, 1981)
Các đồng nghĩa[2]
  • Anthias bartlettorum Randall & Lubbock, 1981
  • Pseudanthias bartlettorum (Randall & Lubbock, 1981)

Nemanthias bartlettorum là một loài cá biển thuộc chi Nemanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh bartlettorum được đặt theo tên của Nathan và Patricia Bartlett, hai người đã có những bức ảnh chụp dưới nước đầu tiên của loài cá này cho thấy có sự tồn tại của chúng (hậu tố orum trong tiếng Latinh mang ý nghĩa "để tri ân, kỷ niệm").[3]

Phân loại học

[sửa | sửa mã nguồn]

N. bartlettorum trước đây được xếp vào chi Pseudanthias, nhưng theo kết quả phân tích dữ liệu hình tháiphân tử mới đây vào đầu năm 2022 thì loài này được chuyển sang chi Nemanthias.[4][5]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

N. bartlettorum được phân bố tập trung ở một số đảo quốc thuộc châu Đại Dương, bao gồm: Palau và đảo Kosrae (quần đảo Caroline); đảo Kwajalein (quần đảo Marshall); đảo NauruTabuaeran (quần đảo Line, Kiribati); và xung quanh Tonga.[6]

N. bartlettorum sống tập trung gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng từ 4 đến ít nhất là 30 m.[7]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở N. bartlettorum là 9 cm.[7]

Cá đực phần lớn cơ thể có màu tím hồng, nhạt dần về phía bụng. Thân trên, từ vị trí gai vây lưng thứ 3–4 đến cuống đuôi có màu vàng tươi. Một sọc ngắn màu vàng cam bên dưới gai vây lưng thứ 8–9 thẳng gần xuống bụng. Đỉnh đầu phớt đỏ. Từ môi trên có một sọc cam sẫm băng qua dưới mắt kéo dài đến sau nắp mang (mờ dần về sau), xuất hiên ở cả cá cái. Vây lưng có các gai trước màu tím, màu vàng trở ra sau. Vây hậu môn và vây bụng màu tím nhạt, đều có dải đỏ ở rìa. Vây đuôi màu vàng tươi ở hai thùy, trong suốt ở giữa; rìa trên và dưới màu tím. Vây ngực trong suốt.[8]

Ở cá cái, phần trên cơ thể có màu vàng tươi, phần còn lại màu tím hồng như cá đực, riêng vùng bụng và dưới hầu có màu trắng nhạt. Vây lưng màu vàng, trừ hai gai thứ đầu tiên màu tím. Vây hậu môn và vây bụng màu tím nhạt. Vây đuôi tương tự cá đực. Vây ngực trong suốt.[8]

N. bartlettorumNemanthias dispar là hai loài kiểu mẫu để cá mào gà Ecsenius midas và cá thia Lepidozygus tapeinosoma bắt chước kiểu hình; ngoài ra, hai loài sau còn lẫn vào đàn của hai loài trước để cùng kiếm ăn.[9]

Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 2 vươn cao, đặc biệt dài ở cá đực); Số tia vây ở vây lưng: 17–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 20–21; Số vảy đường bên: 54–58.[8]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

N. bartlettorum thường tập hợp thành đàn lớn. Cá đực sống theo chế độ hậu cung, gồm nhiều cá cái và cá con dưới sự cai quản của nó. Thức ăn của chúng là các loài động vật phù du.[6]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Williams, J.T.; Carpenter, K.E.; Lawrence, A.; Myers, R. (2016). Pseudanthias bartlettorum. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T69589636A69592502. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T69589636A69592502.en. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Pseudanthias bartlettorum trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  3. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2022.
  4. ^ Gill, Anthony C. (2022). “Revised definitions of the anthiadine fish genera Mirolabrichthys Herre and Nemanthias Smith, with description of a new genus (Teleostei: Serranidae)”. Zootaxa. 5092 (1): 41–66. doi:10.11646/zootaxa.5092.1.2. ISSN 1175-5334. PMID 35391222.
  5. ^ Gay, Jeremy (20 tháng 1 năm 2022). “Pyronotanthias, Nemanthias and Mirolabrichthys help to Sort Out the 'Classic' Anthias Species”. Reef Builders. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.
  6. ^ a b Williams, J. T.; Carpenter, K. E.; Lawrence, A. & Myers, R. (2016). Pseudanthias bartlettorum. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T69589636A69592502. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T69589636A69592502.en. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Pseudanthias bartlettorum trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  8. ^ a b c Randall, J. E.; Lubbock, R. (1981). “A revision of the serranid fishes of the subgenus Mirolabrichthys (Anthiinae: Anthias), with descriptions of five new species”. Contributions in Science. 333: 1–27.
  9. ^ Delrieu-Trottin, Erwan; Planes, Serge; Williams, Jeffrey (2016). “When endemic coral-reef fish species serve as models: Endemic mimicry patterns in the Marquesas Islands” (PDF). Journal of fish biology. 89: 1834. doi:10.1111/jfb.13050.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]