Nemanthias dispar
Nemanthias dispar | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Perciformes |
Họ (familia) | Serranidae |
Phân họ (subfamilia) | Anthiadinae |
Chi (genus) | Nemanthias |
Loài (species) | N. dispar |
Danh pháp hai phần | |
Nemanthias dispar (Herre, 1955) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Nemanthias dispar là một loài cá biển thuộc chi Nemanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1955.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Tính từ định danh dispar trong tiếng Latinh mang nghĩa "không giống nhau", hàm ý đề cập đến việc loài cá này khác với Mirolabrichthys tuka (đồng loại được cho là của N. dispar vào thời điểm được mô tả) ở số lượng vảy đường bên nhiều hơn, nhiều tia vây lưng và vây ngực hơn, cũng như nhiều lược mang hơn.[1]
Phân loại học
[sửa | sửa mã nguồn]N. dispar trước đây được xếp vào chi Pseudanthias, nhưng theo kết quả phân tích dữ liệu hình thái và phân tử mới đây vào đầu năm 2022 thì loài này được chuyển sang chi Nemanthias.[2][3]
Phạm vi phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]Từ đảo Giáng Sinh ở Đông Ấn Độ Dương, N. dispar được phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Line, ngược lên phía bắc đến quần đảo Yaeyama và quần đảo Ogasawara (Nhật Bản), xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier (Úc), Fiji, Tonga và quần đảo Samoa.[4]
N. dispar thường được tìm thấy gần các rạn san hô ở độ sâu đến 40 m.[4]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở N. dispar là 9,5 cm.[5]
Cá trưởng thành có màu vàng cam, riêng cá đực có màu tím hồng ở đầu. Cả hai giới đều có một sọc màu hồng cam từ môi trên băng qua mắt hướng xuống gốc vây ngực. Vây lưng cá đực có màu đỏ thắm. Vây đuôi màu vàng cam ở cá cái, phớt đỏ ở cá đực; thùy đuôi dài và nhọn. Vây bụng của cá đực có các tia vươn rất dài, có thể vượt qua vây hậu môn. Các vây có viền xanh óng.
N. dispar và Nemanthias bartlettorum là hai loài kiểu mẫu để cá mào gà Ecsenius midas và cá thia Lepidozygus tapeinosoma bắt chước kiểu hình; ngoài ra, hai loài sau còn lẫn vào đàn của hai loài trước để cùng kiếm ăn.[6]
Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ 2 vươn cao hơn, đặc biệt ở cá đực); Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 20–21; Số vảy đường bên: 55–63.[7]
Thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]N. dispar được đánh bắt trong ngành thương mại cá cảnh.[4]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.
- ^ Gill, Anthony C. (2022). “Revised definitions of the anthiadine fish genera Mirolabrichthys Herre and Nemanthias Smith, with description of a new genus (Teleostei: Serranidae)”. Zootaxa. 5092 (1): 41–66. doi:10.11646/zootaxa.5092.1.2. ISSN 1175-5334. PMID 35391222.
- ^ Gay, Jeremy (20 tháng 1 năm 2022). “Pyronotanthias, Nemanthias and Mirolabrichthys help to Sort Out the 'Classic' Anthias Species”. Reef Builders. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.
- ^ a b c Williams, J. T.; Lawrence, A. & Myers, R. (2016). “Pseudanthias dispar”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T69590742A69592522. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T69590742A69592522.en. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Pseudanthias dispar trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
- ^ Delrieu-Trottin, Erwan; Planes, Serge; Williams, Jeffrey (2016). “When endemic coral-reef fish species serve as models: Endemic mimicry patterns in the Marquesas Islands” (PDF). Journal of fish biology. 89: 1834. doi:10.1111/jfb.13050.
- ^ Randall, John E.; Allen, Gerald Robert; Steene, Roger C. (1998). Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Đại học Hawaii. tr. 92. ISBN 978-0-8248-1895-1.