Mutsuki (lớp tàu khu trục)
![]() Tàu khu trục Mutsuki vào năm 1930
| |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Xưởng đóng tàu | |
Bên khai thác |
![]() |
Lớp trước | Kamikaze |
Lớp sau | Fubuki |
Thời gian đóng tàu | 1924 - 1927 |
Hoàn thành | 12 |
Bị mất | 12 |
Đặc điểm khái quát | |
Kiểu tàu | Tàu khu trục hạng nhất |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 9,16 m (30 ft) |
Mớn nước | 2,96 m (9 ft 8 in) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 69 km/h (37,25 knot) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn | 154 |
Vũ khí |
|
Lớp tàu khu trục Mutsuki (tiếng Nhật:睦月型駆逐艦 - Mutsukigata kuchikukan) là một lớp bao gồm mười hai tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo trong thập niên 1920.[3] Tất cả đều được đặt những cái tên thi ca truyền thống mô tả các tháng của năm âm lịch hay các tuần trăng. Một số tác giả đã xem các lớp tàu khu trục Kamikaze và Mutsuki như là sự mở rộng của lớp Minekaze.[4] Tất cả chúng đều đã tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai, và không có chiếc nào sống sót qua cuộc chiến này.
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Cùng với việc ra đời của Hiệp ước Hải quân Washington giới hạn số lượng và kích cỡ của các tàu chiến chủ lực, Hải quân Nhật bắt đầu nhấn mạnh đến số lượng và hỏa lực của hạm đội tàu khu trục của họ như là phương các đối phó cái được cho là mối đe dọa ngày càng gia tăng từ phía Hải quân Hoa Kỳ. Lớp tàu khu trục Mutsuki là một phiên bản nối tiếp và cải biến dựa trên lớp tàu khu trục Kamikaze và được đặt hàng trong năm tài chính 1923.[5]
Cùng với các lớp Minekaze và Kamikaze, lớp Mutsuki hình thành nên xương sống của đội hình tàu khu trục Nhật Bản trong suốt những năm 1920 và 1930. Trong khi các lớp Minekaze và Kamikaze được rút khỏi các hoạt động tác chiến ở tuyến đầu do được xem là đã lạc hậu, để được giao những nhiệm vụ thứ yếu vào cuối những năm 1930, lớp Mutsuki vẫn được giữ lại như những tàu khu trục hàng đầu nhờ tầm xa hoạt động và kiểu ngư lôi mạnh mẽ mà chúng được trang bị.[6]
Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Lớp tàu khu trục Mutsuki dựa trên cùng một căn bản về thiết kế lườn của lớp Kamikaze trước đó, ngoại trừ một cấu hình mũi tàu được uốn cong kép, một đặc tính sẽ trở thành tiêu chuẩn cho mọi tàu khu trục Nhật Bản sau này.
Lớp Mutsuki là những chiếc đầu tiên được trang bị kiểu ngư lôi 610 mm (24 inch) mới được phát triển, với tầm hoạt động xa hơn và đầu đạn lớn hơn so với tất cả các kiểu ngư lôi Nhật Bản đang có. Nguyên thủy, ngư lôi Kiểu 8 được trang bị với hai ống phóng ba nòng; rồi sau đó chúng được thay thế bằng kiểu ngư lôi nổi tiếng vận hành bằng oxy ngư lôi Kiểu 93 "Long Lance" trong giai đoạn Thế Chiến II.
Vào tháng 9 năm 1935, nhiều tàu chiến hải quân bị hư hại nặng bởi một cơn bão trong khi đang huấn luyện thực tập, bao gồm một số chiếc thuộc lớp tàu khu trục Mutsuki, gây một số tấm thép vỏ tàu bị uốn cong và cầu tàu bị hư hại. Trong những năm 1936-1937 lớp Mutsuki được tái trang bị với một cầu tàu được gia cố và gọn gàng hơn cùng thiết kế lại những tấm che kín nước cho các bệ phóng ngư lôi, cho phép sử dụng chúng trong mọi thời thiết, và do đó kéo dài tuổi thọ hữu ích của lớp tàu này.[7]
Trong giai đoạn 1941-1942, lớp tàu khu trục Mutsuki được tái trang bị khi dàn pháo chính 120 mm (4,7 inch)/45 caliber được giảm xuống hai khẩu, và bổ sung thêm mười pháo phòng không 25 mm Kiểu 96. Các thiết bị quét mìn và thả mìn được tháo dỡ, thay thế bằng bốn bộ phóng mìn sâu với 36 quả mìn.
Vào tháng 6 năm 1944, những chiếc cp̀n sống sót lại được tái trang bị, khi số lượng pháo phòng không 25 mm Kiểu 96 được tăng lên 20, và bổ sung thêm năm pháo phòng không 13 mm Kiểu 93.
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]
Những chiếc trong lớp Mutsuki đã hình thành nên các hải đội khu trục 5 và 6. Những chiếc Mutsuki và Kisaragi đã tham gia Trận đảo Wake vào lúc mở màn chiến tranh Thái Bình Dương, trong đó Kisaragi bị mất trong một cuộc không kích trên đường rút lui. Mười một chiếc còn lại tham gia cuộc chiếm đóng Philippines và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Trong Chiến dịch quần đảo Solomon những chiếc tàu khu trục phải trải qua những hoàn cảnh nguy hiểm như những tàu vận tải nhanh trong các nhiệm vụ "Tốc hành Tokyo" nhằm tăng viện cho các đơn vị đồn trú trên các đảo trong khu vực. Mutsuki, Nagatsuki, Kikuzuki, Mikazuki và Mochizuki bị mất do không kích trong nhiều trận đánh khác nhau tại quần đảo Solomon.[8]
Những chiếc còn sống sót đã tham gia Chiến dịch New Guinea, hầu hết trong vai trò vận chuyển "Tốc hành Tokyo". Yayoi bị mất trong một cuộc không kích ngoài khơi New Guinea và Fumizuki trong Chiến dịch Hailstone tại Truk. Vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh, Uzuki bị mất trong cuộc tấn công bởi PT-boat Mỹ, Satsuki và Yūzuki bị mất bởi bởi không kích, và Minazuki cùng chung số phận bởi ngư lôi của tàu ngầm tại Philippines.
Không có tàu khu trục nào thuộc lớp Mutsuki còn sống sót qua cuộc chiến tranh.[9]
Những chiếc trong lớp
[sửa | sửa mã nguồn]Lịch sử tên gọi
[sửa | sửa mã nguồn]Hải quân Đế quốc Nhật Bản thoạt tiên có kế hoạch chỉ đánh số cho những chiếc trong lớp Mutsuki do số lượng lớn tàu chiến mà Hải quân Nhật dự định chế tạo trong Chương trình Kế hoạch Hạm đội 8-8. Điều này tỏ ra rất không quen thuộc đối với thủy thủ đoàn, và là nguồn gốc của sự nhầm lẫn thường xuyên trong liên lạc. Đến tháng 8 năm 1928, chúng lại được đặt tên như cách thông thường.[10]
Tên đặt khi hoàn tất | Phiên âm | Nghĩa | Đổi tên 1 tháng 8 năm 1928 |
第十九号駆逐艦 | Dai-19-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 19 | Mutsuki (睦月) |
第二十一号駆逐艦 | Dai-21-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 21 | Kisaragi (如月) |
第二十三号駆逐艦 | Dai-23-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 23 | Yayoi (彌生) |
第二十五号駆逐艦 | Dai-25-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 25 | Uzuki (卯月) |
第二十七号駆逐艦 | Dai-27-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 27 | Satsuki (皐月) |
第二十八号駆逐艦 | Dai-28-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 28 | Minatsuki (水無月) |
第二十九号駆逐艦 | Dai-29-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 29 | Fumizuki (文月) |
第三十号駆逐艦 | Dai-30-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 30 | Nagatsuki (長月) |
第三十一号駆逐艦 | Dai-31-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 31 | Kikuzuki (菊月) |
第三十二号駆逐艦 | Dai-32-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 32 | Mikazuki (三日月) |
第三十三号駆逐艦 | Dai-33-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 33 | Mochizuki (望月) |
第三十四号駆逐艦 | Dai-34-Gō Kuchikukan | Tàu khu trục số 34 | Yūzuki (夕月) |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn] Tư liệu liên quan tới Mutsuki class destroyers tại Wikimedia Commons
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Riêng Yayoi trang bị 2 × turbine hơi nước Metropolitan-Vickers; Nagatsuki: 2 × turbine hơi nước Escher Wyss AG Zoelly.
- ^ Kikuzuki, Mikazuki, Mochizuki và Yūzuki còn được trang bị 2 máy cắt dây mìn ngầm
- ^ Jentsura, Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945
- ^ Jones, Daniel H. (2003). “IJN Minekaze, Kamikaze and Mutsuki class Destroyers”. Ship Modeler's Mailing List (SMML. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
- ^ Globalsecurity.org, IJN Mutsuki class destroyers
- ^ Evans. Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy
- ^ Juntsura. Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945
- ^ Morison. The Struggle for Guadalcanal, August 1942 – February 1943
- ^ Brown. Warship Losses of World War Two
- ^ Nishida, Hiroshi. “Materials of IJN: Mutsuki class destroyer”. Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Evans, David (1979). Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy, 1887-1941. US Naval Institute Press. ISBN 0870211927.
- Brown, David (1990). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
- Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895–1945. Atheneum. ISBN 0689114028.
- Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. US Naval Institute Press. ISBN 087021893X.
- Morison, Samuel Eliot (1958). The Struggle for Guadalcanal, August 1942 – February 1943, vol. 5 of History of United States Naval Operations in World War II. Boston: Little, Brown and Company. ISBN 0-316-58305-7.
- Watts, Anthony J (1967). Japanese Warships of World War II. Doubleday. ASIN B000KEV3J8.
- Whitley, M J (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Arms and Armour Press. ISBN 1854095218.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Nishida, Hiroshi. “Materials of IJN: Mutsuki class destroyer”. Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
- Globalsecurity.org. “IJN Mutsuki class destroyers”.
- Jones, Daniel H. (2003). “IJN Minekaze, Kamikaze and Mutsuki class Destroyers”. Ship Modeler's Mailing List (SMML). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.