Bước tới nội dung

I-351 (lớp tàu ngầm)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm I-352 vào ngày 23 tháng 1, 1948
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp tàu ngầm I-351
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure
Bên khai thác Hải quân Đế quốc Nhật Bản
Thời gian đóng tàu 1943–1945
Thời gian hoạt động 1945
Dự tính 6
Hoàn thành 1
Hủy bỏ 4
Bị mất 2
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Tàu ngầm vận tải/chở dầu
Trọng tải choán nước
  • 3.512 tấn Anh (3.568 t) (nổi)
  • 4.290 tấn Anh (4.359 t) (lặn)
Chiều dài 110,0 m (360 ft 11 in) chung
Sườn ngang 10,2 m (33 ft 6 in)
Mớn nước 6,1 m (20 ft 0 in)
Công suất lắp đặt
  • 3.700 (nổi)
  • 1.200 shp (lặn)
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 13.000 nmi (24.000 km) ở tốc độ 14 hải lý trên giờ (26 km/h) (nổi)
  • 100 nmi (190 km) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 90 m (300 ft)
Sức chứa 365 tấn Anh (371 t) xăng máy bay
Thủy thủ đoàn tối đa 77 + 13 đội bay & kỹ thuật
Vũ khí

Lớp tàu ngầm I-351 (伊三百五十一型潜水艦 I-san-byaku-go-jū-ichi-gata sensuikan?) là một lớp tàu ngầm vận tải/chở dầu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hải quân Nhật Bản gọi tên lớp tàu này như là Kiểu tàu ngầm Senho (潜補型潜水艦 Sen-Ho-gata sensuikan?), là tên rút gọn từ Hokyū Sensuikan (水艦 Tàu ngầm Chở dầu?). Hải quân Nhật Bản thiết kế lớp tàu này để phục vụ cho các thủy phi cơ tại các khu vực tiền phương; tuy nhiên khi nó hoàn tất nhu cầu này đã không còn, nên nó được cải biến thành tàu ngầm chở dầu. I-351, chiếc duy nhất hoàn tất, bị đánh chìm trong chặng quay trở về sau lượt hoạt động thứ hai vào năm 1945; chiếc thứ hai, I-352, bị phá hủy trong một đợt không kích của Hoa Kỳ trước khi hoàn tất. Bốn chiếc khác đã được lên kế hoạch, nhưng sau đó bị hủy bỏ trước khi được đặt lườn.

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp tàu ngầm I-351 được đặt hàng trong khuôn khổ Chương trình Maru 5 năm 1942[1] nhằm hỗ trợ cho thủy phi cơ của Hải quân Nhật Bản hoạt động tại các khu vực không có căn cứ trên bờ và các tàu tiếp liệu thủy phi cơ không thể hoạt động.[2] Chúng được thiết kế để hỗ trợ cho đến ba thủy phi cơ với nhiên liệu, đạn dược, nước và thậm chí thành viên đội bay thay thế.[1]

Lớp I-351 có chiều dài chung 111 mét (364 ft 2 in), mạn tàu rộng 10,2 mét (33 ft 6 in) và mớn nước 6,1 mét (20 ft 0 in). Chúng có trọng lượng choán nước 3.512 tấn Anh (3.568 t) khi nổi và 4.290 tấn Anh (4.360 t) khi lặn. Chúng có độ sâu lặn tối đa 90 mét (300 ft) và thủy thủ đoàn bao gồm 77 sĩ quan và thủy thủ, cộng với chỗ nghỉ dành cho 13 thành viên đội bay.[2]

Các tàu ngầm này có hai trục chân vịt, dẫn động bởi hai động cơ diesel công suất 1.850 mã lực phanh (1.380 kW) và hai động cơ điện công suất 600 mã lực càng (447 kW). Cấu hình này cho phép lớp I-351 đạt được tốc độ tối đa 15,75 hải lý trên giờ (29,17 km/h; 18,12 mph) khi nổi và 6,3 hải lý trên giờ (11,7 km/h; 7,2 mph) khi lặn. Dự trữ tiếp liệu cho phép chúng có thể hoạt động lên đến 60 ngày.[2]

Tháp chỉ huy của I-351, năm 1945

Các con tàu được trang bị bốn ống phóng ngư lôi 21 inch (533 mm) trước mũi và mang theo bốn ngư lôi được nạp sẵn. Để tác chiến trên mặt biển, chúng được thiết kế với một hải pháo 14 xentimét (5,5 in) trên boong tàu, nhưng do không sẵn có vào lúc con tàu được đóng nên được thay bằng ba súng cối Type 3 81 mm (3 in). Các con tàu còn được trang bị bảy pháo phòng không 25 mm Type 96, gồm hai khẩu đội nòng đôi và ba khẩu nòng đơn.[2]

Lớp I-351 thoạt tiên được trang bị để vận chuyển 365 tấn Anh (371 t) xăng máy bay, 11 tấn Anh (11 t) nước sạch, và 60 quả bom 550 pound (250 kg) hoặc 30 bom cùng 15 quả ngư lôi phóng từ máy bay. Bốn quả ngư lôi có thể thay thế bằng số lượng tương đương để nạp vào các ống phóng của chính chiếc tàu ngầm.[3]

Những chiếc trong lớp

[sửa | sửa mã nguồn]
Số hiệu Tên Xưởng đóng tàu[2] Hạ thủy[2] Hoàn tất[2] Số phận[2]
655 I-351[Ghi chú 1] Xưởng vũ khí Hải quân Kure 24 tháng 2, 1944 28 tháng 1, 1945 Bị tàu ngầm USS Bluefish đánh chìm, 14 tháng 7, 1945
656 I-352 23 tháng 4, 1944 Bị đánh chìm bởi không kích, 22 tháng 6, 1945
657 I-353 Hủy bỏ, 1943
730, 731, 732 Hủy bỏ, 1942

Chế tạo - Phục vụ

[sửa | sửa mã nguồn]

Chỉ có các chiếc I-351I-352 được đặt lườn, và cùng được chế tạo tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure; bốn chiếc khác lần lượt bị hủy bỏ vào các năm 19421943.[2]

I-351 được cải biến trước khi hoàn tất thành một tàu ngầm chở dầu. Nó thực hiện một chuyến khứ hồi đến Singapore, vận chuyển 132.000 galông Mỹ (500.000 l; 110.000 gal Anh) xăng máy bay, và bị đánh chìm trong chặng quay trở về khi bị tàu ngầm Hoa Kỳ Bluefish đánh chìm trong biển Đông vào ngày 14 tháng 7, 1945, tại tọa độ 04°30′B 110°00′Đ / 4,5°B 110°Đ / 4.500; 110.000.[4][1]

I-350 hoàn tất được 90% khi nó bị phá hủy bởi một cuộc không kích bởi máy bay ném bom B-29 Superfortress của Không lực Lục quân Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 7.[2]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ 伊号第351潜水艦 (I-Gō Dai-351 Sensuikan?). Tên tương tự được áp dụng.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Jentschura, Jung & Mickel (1977), tr. 180.
  2. ^ a b c d e f g h i j Carpenter & Polmar (1986), tr. 111.
  3. ^ Stille (2007), tr. 36.
  4. ^ Stille (2007), tr. 36-37.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Carpenter, Dorr; Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Jentschura, Hansgeorg; Jung, Dieter; Mickel, Peter (1977). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 0-87021-893-X.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rekishi, Gunzō (tháng 1 năm 1998). “I-Gō Submarines”. History of [the] Pacific War (bằng tiếng Japanese). 17. Tokyo: Gakken. ISBN 4-05-601767-0.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  • Rekishi, Gunzō (tháng 3 năm 2005). "Perfect guide, The submarines of the Imperial Japanese Forces". History of Pacific War Extra (bằng tiếng Japanese). Tokyo: Gakken. ISBN 4-05-603890-2.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  • “Japanese Naval Vessels No.43, "Japanese Submarines III"”. The Maru Special (bằng tiếng Japanese). Japan: Ushio Shobō. tháng 9 năm 1980.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)