Milan Baroš
Baroš trong màu áo Baník Ostrava năm 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Milan Baroš[1] | ||
Ngày sinh | 28 tháng 10, 1981 [1] | ||
Nơi sinh | Valašské Meziříčí, Tiệp Khắc | ||
Chiều cao | 1,82 m (6 ft 0 in)[2] | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1987–1991 | Vigantice | ||
1991–1993 | Rožnov p. Radhoštěm | ||
1993–1998 | Baník Ostrava | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1998–2001 | Baník Ostrava | 76 | (22) |
2002–2005 | Liverpool | 68 | (19) |
2005–2007 | Aston Villa | 42 | (9) |
2007–2008 | Lyon | 24 | (7) |
2008 | → Portsmouth F.C. (mượn) | 12 | (0) |
2008–2013 | Galatasaray | 93 | (48) |
2013 | Baník Ostrava | 12 | (5) |
2013–2014 | Antalyaspor | 13 | (2) |
2014–2015 | Baník Ostrava | 11 | (2) |
2015–2016 | Mladá Boleslav | 21 | (6) |
2016–2017 | Slovan Liberec | 24 | (5) |
2017–2020 | Baník Ostrava | 58 | (16) |
Tổng cộng | 454 | (141) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1996–1997 | U-15 Cộng hòa Séc | 7 | (3) |
1997–1998 | U-16 Cộng hòa Séc | 5 | (1) |
1998 | U-17 Cộng hòa Séc | 4 | (1) |
1998–2000 | U-18 Cộng hòa Séc | 19 | (5) |
1999–2002 | U-21 Cộng hòa Séc | 19 | (9) |
2001–2012 | Cộng hòa Séc | 93 | (41) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 1 tháng 2 năm 2019 |
Milan Baroš (phát âm tiếng Séc: [ˈmɪlan ˈbaroʃ]; sinh ngày 28 tháng 10 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá Séc thi đấu ở vị trí tiền đạo.
Vào năm 2005, anh cùng Liverpool vô địch UEFA Champions League. Sau đó anh vô địch Ligue 1 cùng Lyon năm 2007, vô địch Cúp FA với Portsmouth năm 2008 và vô địch Thổ Nhĩ Kỳ với Galatasaray năm 2012. Anh có nhiều lần thi đấu cho Baník Ostrava và từng đá cho Aston Villa của Anh.
Baroš khoác áo Cộng hòa Séc 93 lần, ghi 41 bàn. Anh giành giải vua phá lưới Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, giải đấu mà Cộng hòa Séc vào tới bán kết. Với 41 bàn cho Cộng hòa Séc, anh là chân sút ghi nhiều bàn thắng thứ hai chỉ sau Jan Koller.
Ngày 3 tháng 7 năm 2020, Milan Baroš chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 33 năm thi đấu chuyên nghiệp.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Liverpool
[sửa | sửa mã nguồn]Baroš gia nhập Liverpool năm 2002 và mang áo số 5. Mùa giải đầu tiên anh chỉ được ra sân 1 lần duy nhất. Đến mùa giải tiếp theo anh ghi được 12 bàn. Mùa giải 2003/2004, Baros chấn thương mắt cá chân nặng phải nghỉ thi đấu 6 tháng và chỉ ghi được 2 bàn cả mùa giải.
Sau khi giành danh hiệu vua phá lưới Euro 2004, Baros tiếp tục ở lại Liverpool dưới thời Rafael Benitez. Mùa giải 2004/2005, anh ghi được 13 bàn và cùng Liverpool giành danh hiệu vô địch UEFA Champions League khi đánh bại AC Milan trong trận chung kết. Tuy nhiên sau đó Baros phải rời câu lạc bộ khi nhiều tiền đạo khác chuyển đến như Peter Crouch từ Southampton.
Aston Villa
[sửa | sửa mã nguồn]Baroš chuyển đến Aston Villa với phí chuyển nhượng 6,5 triệu bảng Anh vào tháng 8 năm 2005 cùng bản hợp đồng 4 năm.[3]. Tại đây anh mang áo số 10. Anh kết thúc mùa giải với 8 bàn thắng trong 25 trận và 3 bàn ở Cúp F.A., 1 bàn ở Cúp Liên đoàn.
Mùa giải tiếp theo Baroš thi đấu rất tệ. Đầu mùa giải anh được Martin O'Neill cho đá chính thức bên cạnh Juan Pablo Ángel nhưng anh sớm dính chấn thương và mất vị trí chính thức. Bàn thắng cuối cùng của Baros cho Aston Villa là bàn thắng vào lưới Manchester United tại Cúp F.A. trước khi anh chuyển đến Lyon theo bản hợp đồng trao đổi với John Carew.
Tại Aston Villa, Baroš ghi được 14 bàn sau 51 lần ra sân.
Lyon
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 22 tháng 1 2007, Baroš ký hợp đồng với Lyon và tại đây anh gặp lại huấn luyện viên cũ Gérard Houllier.
Đến mùa giải 2007/2008, Gérard Houllier ra đi và Alain Perrin trở thành huấn luyện viên trưởng Lyon. Trong 2 mùa bóng thi đấu cho Lyon (nửa cuối 2006/2007 và nửa đầu 2007/2008), Baros ghi được 7 bàn qua 24 lần ra sân. Trong thời gian thi đấu cho Lyon, anh còn gặp 1 rắc rối về pháp luật khi lái xe hơi quá tốc độ và bị cảnh sát Pháp bắt.[4].
Portsmouth
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 27 tháng 1 2008, Milan hoàn tất hợp đồng cho mượn từ Lyon đến Portsmouth F.C cho đến hết mùa 2007/2008 với điều khoản Portsmouth có thể mua đứt anh với giá 7.000.000 [5]. Baroš có trận đầu tiên với Portsmouth khi gặp Manchester United vào ngày 30 tháng 1 năm 2008.
Trong 16 trận ra sân cho Portsmouth, Baroš không ghi được bàn nào. Trận đấu cuối cùng tại mùa giải 2007/2008 là trận chung kết Cúp F.A. gặp Cardiff City tại sân Wembley khi anh vào sân thay Kanu vào phút 87 và cùng Portsmouth giành FA Cup lần đầu tiên.
Galatasaray
[sửa | sửa mã nguồn]Baroš chính thức chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray với hợp đồng 3 năm cùng phí chuyển nhượng 5.5 triệu € từ Lyon vào ngày 26 tháng 8 năm 2008. Anh có trận đầu tiên cho câu lạc bộ mới trong cuộc đối đầu Kayserispor, nhưng anh chỉ thi đấu 15 phút cuối trận.
Baroš có cú đúp đầu tiên tại UEFA Cup trong trận gặp đội bóng Thụy Sĩ Bellinzona ngày 18 tháng 12 năm 2008.[6] 3 ngày sau đó, tại giải trong nước, anh tiếp tục ghi 2 bàn nữa trong cuộc đối đầu Kocaelispor, giúp Galatasaray giành chiến thắng 4-1.[7]
Ngày 21 tháng 12 năm 2008, với 14 bàn thắng, Baroš đã dẫn đầu danh sách vua phá lưới tại Süper Lig trong đó có hat-trick vào lưới Beşiktaş giúp Galatasaray giành chiến thắng 4-2.[8] Anh kết thúc mùa giải 2008-2009 bằng danh hiệu vua phá lưới với 20 bàn thắng.
Baroš bắt đầu mùa giải mới 2009-10 bằng cú đúp trong trận thắng 4-1 trước Kayserispor.[9] Hai bàn thắng kế tiếp của anh đến vào ngày 13 tháng 9 trong trận Galatasaray giành chiến thắng 3-0 trước Beşiktaş.[10]
Antalyaspor
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 11 tháng 6 năm 2013, anh gia nhập câu lạc bộ Thổ Nhĩ Kỳ Antalyaspor, bản hợp đồng có thời hạn 1 năm.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Baroš được gọi vào đội tuyển quốc gia từ năm 2001. Tại Euro 2004, Baros ghi được 5 bàn vào lưới Latvia, Đức, Hà Lan và Đan Mạch để giành giải vua phá lưới Euro và nhận danh hiệu Chiếc giày vàng.
Tại World Cup 2006, chấn thương khiến anh vắng mặt ở 2 trận gặp Mỹ và Ghana. Anh chỉ xuất hiện trong trận cuối gặp Ý và thất bại 0-2 của Cộng hòa Séc khiến họ bị loại ngay vòng bảng.
Đến Euro 2008, Baroš tiếp tục được huấn luyện viên Karel Brückner gọi vào đội tuyển dù anh bị nhiều người chỉ trích vì phong độ của mình. Trận đầu tiên gặp Thụy Sĩ anh không được ra sân. Đến trận gặp Bồ Đào Nha anh được ra sân từ đầu nhưng không ghi được bàn thắng nào. Trong trận gặp Thổ Nhĩ Kỳ, Baroš không được thi đấu phút nào nhưng cũng bị lãnh một thẻ vàng vì lỗi phản ứng với trọng tài. Kết quả Séc thua 3-2 và bị loại khỏi giải ngày sau vòng đấu bảng.
Baroš sau đó đã bị nhận một án kỷ luật từ đội tuyển do một buổi nhậu nhẹt qua đêm cùng năm cầu thủ khác vào ngày 8 tháng 4 năm 2009.[11] Tuy nhiên, tân huấn luyện viên trưởng đội tuyển Cộng hòa Séc Ivan Hašek đã gọi anh trở lại đội tuyển vào ngày 12 tháng 8, 2009. Anh đánh dấu sự trở lại bằng bàn thắng từ chấm phạt đền trong chiến thắng 3-1 trước Bỉ trong một trận giao hữu. Ngày 9 tháng 9, Baroš ghi được 4 bàn trong trận đấu gặp San Marino tại vòng loại World Cup 2010. Chung cuộc CH Séc thắng San Marino 7-0.[12]
Ngay sau khi Cộng hòa Séc để thua 0-1 trước Bồ Đào Nha tại tứ kết Euro 2012, Milan Baroš đã quyết định giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế với 41 bàn thắng sau 93 trận đấu.
Phong cách thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Baroš có biệt danh "Maradona xứ Ostravan" tại Cộng hòa Séc do có sự tương đồng với huyền thoại bóng đá người Argentina Diego Maradona.[13] Anh được chú ý đặc biệt vì là một cầu thủ nhanh nhẹn với kỹ năng rê bóng tuyệt vời.
Cuộc sống cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]Milan Baroš đã kết hôn với Tereza Franková.[14] Con trai của họ, Patrick, ra đời vào ngày 1 tháng 9 năm 2009.[15]
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến 5 tháng 4 năm 2015
Câu lạc bộ | Mùa | Giải quốc gia | Cúp quốc gia | Cúp Liên đoàn | Châu Âu | Tổng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Baník Ostrava | 1998–99 | Giải VĐ CH Séc | 6 | 0 | 0 | 0 | — | — | 6 | 0 | ||
1999–2000 | Giải VĐ CH Séc | 29 | 6 | 0 | 0 | — | — | 29 | 6 | |||
2000–01 | Giải VĐ CH Séc | 26 | 6 | 0 | 0 | — | — | 26 | 6 | |||
2001–02 | Giải VĐ CH Séc | 15 | 11 | 0 | 0 | — | — | 15 | 11 | |||
Tổng | 76 | 23 | 0 | 0 | — | — | 76 | 23 | ||||
Liverpool | 2001–02 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 |
2002–03 | Premier League | 27 | 9 | 1 | 0 | 4 | 2 | 9 | 1 | 42[A] | 12 | |
2003–04 | Premier League | 13 | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 | 4 | 1 | 18 | 2 | |
2004–05 | Premier League | 26 | 9 | 1 | 0 | 4 | 2 | 14 | 2 | 45 | 13 | |
2005–06 | Premier League | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | |
Tổng | 68 | 19 | 3 | 0 | 8 | 4 | 28 | 4 | 108 | 27 | ||
Aston Villa | 2005–06 | Premier League | 25 | 8 | 3 | 3 | 2 | 1 | — | 30 | 12 | |
2006–07 | Premier League | 17 | 1 | 1 | 1 | 3 | 0 | — | 21 | 2 | ||
Tổng | 42 | 9 | 4 | 4 | 5 | 1 | — | 51 | 14 | |||
Lyon | 2006–07 | Ligue 1 | 12 | 4 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | 14 | 4 |
2007–08 | Ligue 1 | 12 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | 15 | 3 | |
Tổng | 24 | 7 | 0 | 0 | 1 | 0 | 4 | 0 | 29 | 7 | ||
Portsmouth | 2007–08 | Premier League | 12 | 0 | 4 | 0 | 0 | 0 | — | 16 | 0 | |
Tổng | 12 | 0 | 4 | 0 | 0 | 0 | — | 16 | 0 | |||
Galatasaray | 2008–09 | Süper Lig | 31 | 20 | 0 | 0 | — | 9 | 5 | 40 | 25 | |
2009–10 | Süper Lig | 17 | 11 | 0 | 0 | — | 6 | 5 | 23 | 16 | ||
2010–11 | Süper Lig | 17 | 9 | 0 | 0 | — | 2 | 2 | 19 | 11 | ||
2011–12 | Süper Lig | 28 | 8 | 0 | 0 | — | — | 28 | 8 | |||
2012–13 | Süper Lig | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | |
Tổng | 93 | 48 | 0 | 0 | — | 17 | 12 | 110 | 60 | |||
Baník Ostrava | 2012–13 | 12 | 5 | 0 | 0 | — | — | 12 | 5 | |||
Tổng | 12 | 5 | 0 | 0 | — | — | 12 | 5 | ||||
Antalyaspor | 2013–14 | Süper Lig | 13 | 2 | 3 | 2 | — | — | 16 | 4 | ||
Tổng | 13 | 2 | 3 | 2 | — | — | 16 | 4 | ||||
Baník Ostrava | 2014–15 | Giải VĐ CH Séc | 9 | 2 | 0 | 0 | — | — | 9 | 2 | ||
Tổng | 9 | 2 | 0 | 0 | — | — | 9 | 2 | ||||
Mladá Boleslav | 2015–16 | Giải VĐ CH Séc | — | — | ||||||||
Tổng | — | — | ||||||||||
Tổng sự nghiệp | 349 | 115 | 14 | 6 | 14 | 5 | 49 | 16 | 427 | 142 |
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2001 | 8 | 4 |
2002 | 6 | 4 |
2003 | 7 | 4 |
2004 | 13 | 9 |
2005 | 11 | 5 |
2006 | 8 | 4 |
2007 | 8 | 1 |
2008 | 9 | 1 |
2009 | 8 | 6 |
2010 | 1 | 0 |
2011 | 7 | 1 |
2012 | 7 | 2 |
Tổng cộng | 93 | 41 |
Bàn thắng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]- Bàn thắng của CH Séc liệt kê trước.[16]
# | Ngày | Địa điểm | Trận thứ | Đối thủ | Ghi bàn | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1. | 25 tháng 4 năm 2001 | Sân vận động Letná, Praha, Cộng hòa Séc | 1 | Bỉ | 1–1 | 1–1 | Giao hữu |
2. | 6 tháng 6 năm 2001 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 2 | Bắc Ireland | 3–1 | 3–1 | Vòng loại World Cup 2002 |
3. | 5 tháng 9 năm 2001 | 5 | Malta | 3–2 | 3–2 | ||
4. | 6 tháng 10 năm 2001 | Sân vận động Letná, Praha, Cộng hòa Séc | 6 | Bulgaria | 6–0 | 6–0 | |
5. | 6 tháng 9 năm 2002 | 12 | Nam Tư | 3–0 | 5–0 | Giao hữu | |
6. | 5–0 | ||||||
7. | 16 tháng 10 năm 2002 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 13 | Belarus | 2–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2004 |
8. | 20 tháng 11 năm 2002 | 14 | Thụy Điển | 3–2 | 3–2 | Giao hữu | |
9. | 12 tháng 2 năm 2003 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | 15 | Pháp | 2–0 | 2–0 | |
10. | 30 tháng 4 năm 2003 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 18 | Thổ Nhĩ Kỳ | 4–0 | 4–0 | |
11. | 6 tháng 9 năm 2003 | Sân vận động Dinamo, Minsk, Belarus | 20 | Belarus | 2–1 | 3–1 | Vòng loại Euro 2004 |
12. | 10 tháng 9 năm 2003 | Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc | 21 | Hà Lan | 3–1 | 3–1 | |
13. | 31 tháng 3 năm 2004 | Lansdowne Road, Dublin, Cộng hòa Ireland | 22 | Cộng hòa Ireland | 1–1 | 1–2 | Giao hữu |
14. | 2 tháng 6 năm 2004 | Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc | 24 | Bulgaria | 1–0 | 3–1 | |
15. | 6 tháng 6 năm 2004 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 25 | Estonia | 1–0 | 2–0 | |
16. | 2–0 | ||||||
17. | 15 tháng 6 năm 2004 | Sân vận động Thành phố Aveiro, Aveiro, Bồ Đào Nha | 26 | Latvia | 1–1 | 2–1 | Euro 2004 |
18. | 19 tháng 6 năm 2004 | 27 | Hà Lan | 2–2 | 3–2 | ||
19. | 23 tháng 6 năm 2004 | Sân vận động José Alvalade, Lisboa, Bồ Đào Nha | 28 | Đức | 2–1 | 2–1 | |
20. | 27 tháng 6 năm 2004 | Sân vận động Dragão, Porto, Bồ Đào Nha | 29 | Đan Mạch | 2–0 | 3–0 | |
21. | 3–0 | ||||||
22. | 12 tháng 2 năm 2005 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 36 | Phần Lan | 1–0 | 4–3 | Vòng loại World Cup 2006 |
23. | 30 tháng 3 năm 2005 | Sân vận động Comunal d'Aixovall, Andorra la Vella, Andorra | 37 | Andorra | 2–0 | 4–0 | |
24. | 4 tháng 6 năm 2005 | Sân vận động Nisy, Liberec, Cộng hòa Séc | 38 | Andorra | 5–1 | 8–1 | |
25. | 8 tháng 6 năm 2005 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 39 | Macedonia | 6–1 | 6–1 | |
26. | 7 tháng 9 năm 2005 | Sân vận động Andrův, Olomouc, Cộng hòa Séc | 42 | Armenia | 3–0 | 4–1 | |
27. | 26 tháng 5 năm 2006 | Tivoli-Neu, Innsbruck, Áo | 47 | Ả Rập Xê Út | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
28. | 7 tháng 10 năm 2006 | Sân vận động Nisy, Liberec, Cộng hòa Séc | 51 | San Marino | 3–0 | 7–0 | Vòng loại Euro 2008 |
29. | 7–0 | ||||||
30. | 15 tháng 11 năm 2006 | Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc | 53 | Đan Mạch | 1–1 | 1–1 | Giao hữu |
31. | 24 tháng 3 năm 2007 | 55 | Đức | 1–2 | 1–2 | Vòng loại Euro 2008 | |
32. | 20 tháng 8 năm 2008 | Sân vận động Wembley, Luân Đôn, Anh | 66 | Anh | 1–0 | 2–2 | Giao hữu |
33. | 12 tháng 8 năm 2009 | Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc | 74 | Bỉ | 2–1 | 3–1 | |
34. | 5 tháng 9 năm 2009 | Tehelné pole, Bratislava, Slovakia | 75 | Slovakia | 2–2 | 2–2 | Vòng loại World Cup 2010 |
35. | 9 tháng 9 năm 2009 | Sân vận động bóng đá Thành phố, Uherske Hradiste, Cộng hòa Séc | 76 | San Marino | 1–0 | 7–0 | Vòng loại World Cup 2010 |
36. | 2–0 | ||||||
37. | 3–0 | ||||||
38. | 5–0 | ||||||
39. | 29 tháng 3 năm 2011 | Sân vận động Střelecký ostrov, České Budějovice, Cộng hòa Séc | 81 | Liechtenstein | 1–0 | 2–0 | Vòng loại Euro 2012 |
40. | 29 tháng 2 năm 2012 | Sân vận động Aviva, Dublin, Cộng hòa Ireland | 87 | Cộng hòa Ireland | 1–0 | 1–1 | Giao hữu |
41. | 26 tháng 5 năm 2012 | Profertil Arena, Hartberg, Áo | 88 | Israel | 1–0 | 2–1 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Liverpool
- Cúp Liên đoàn bóng đá Anh: 2003
- UEFA Champions League: 2005
- Olympique Lyon
- Ligue 1: 2007
- Siêu cúp bóng đá Pháp: 2007
- Portsmouth
- Cúp FA: 2008
- Galatasaray
- Süper Lig: 2011–12
- Siêu cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ: 2012
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- Chiếc giày vàng Euro 2004
- Đội hình tiêu biểu Euro 2004
- Vua phá lưới Süper Lig 2008-09: 20 bàn
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Hugman, Barry J. biên tập (2008). The PFA Footballers' Who's Who 2008–09. Mainstream Publishing. tr. 38. ISBN 978-1-84596-324-8.
- ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2016.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
- ^ “Baros chuyển sang Villa” (bằng tiếng Anh). BBC Sport. 23 tháng 8 năm 2005. Truy cập 27 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Ligue 1 - Baros vi phạm luật lái ô tô quá tốc độ 170 mph (270 km/h)”. Eurosport. 2 tháng 2 năm 2007. Truy cập 26 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Portsmouth seal Baros loan deal”. BBC Sport. ngày 27 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Match Report - Bellinzona:3 Galatasaray:4”. Galatasaray.org. 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập 24 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Match Report - Kocaeli:1 Galatasaray:4”. Galatasaray.org. 21 tháng 12 năm 2008. Truy cập 24 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Match Report - Galatasaray:4 Beşiktaş:2”. Galatasaray.org. 21 tháng 12 năm 2008. Truy cập 24 tháng 12 năm 2008.
- ^ Baros scores first two goals of season Lưu trữ 2012-03-24 tại Wayback Machine Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009
- ^ Baros scores twice against Besiktas Lưu trữ 2012-03-24 tại Wayback Machine Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009
- ^ Czechs ban Hammer after late night out Lưu trữ 2009-04-10 tại Wayback Machine. This is London (ngày 8 tháng 4 năm 2009). Truy cập: ngày 8 tháng 4 năm 2009.
- ^ Baros bags four in Czech romp[liên kết hỏng]
- ^ Kenety, Brian (ngày 23 tháng 8 năm 2005). “Aston Villa to sign on Czech striker Milan Baros”. Radio Prague. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
- ^ “Milan Baros gizlice evlendi”. Hürriyet. ngày 2 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2009.
- ^ “Milan Baroš je tatínkem”. Milan Baroš Official Website. ngày 2 tháng 9 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2009.
- ^ Milan Baroš tại FAČR (Tiếng Séc)
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Milan Baroš. |
- Thông tin tại LFChistory.net
- Bản mẫu:TFF player
- Milan Baroš – Thành tích thi đấu FIFA
- Milan Baroš tại National-Football-Teams.com
- Milan Baroš tại Soccerbase
- Milan Baroš – Thống kê Giải bóng đá vô địch quốc gia Séc tại Fotbal DNES (tiếng Séc)
- Sinh năm 1981
- Nhân vật còn sống
- Người Valašské Meziříčí
- Cầu thủ bóng đá Séc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Cộng hòa Séc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Cộng hòa Séc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc
- Cầu thủ bóng đá FC Baník Ostrava
- Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
- Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C.
- Cầu thủ bóng đá Olympique Lyonnais
- Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
- Cầu thủ bóng đá Galatasaray S.K.
- Cầu thủ bóng đá Antalyaspor
- Cầu thủ bóng đá FK Mladá Boleslav
- Tiền đạo bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá Süper Lig
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội của Cộng hòa Séc
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2000
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012
- Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất Cộng hòa Séc
- Cầu thủ bóng đá Ligue 1
- Cầu thủ bóng đá Séc ở nước ngoài
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Vận động viên Séc ở Vương quốc Liên hiệp Anh
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
- Vận động viên Séc ở Pháp
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
- Vận động viên Séc ở Thổ Nhĩ Kỳ
- Cầu thủ bóng đá FC Slovan Liberec
- Cầu thủ vô địch UEFA Champions League