Alan Shearer
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Alan Shearer[1] | ||
Chiều cao | 1,83 m (6 ft 0 in) | ||
Vị trí | Tiền đạo | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
Wallsend Boys Club | |||
1986–1988 | CLB Southampton | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1988–1992 | CLB Southampton | 158 | (43) |
1992–1996 | Blackburn Rovers | 171 | (130) |
1996–2006 | Newcastle United | 405 | (206) |
Tổng cộng | 733 | (379) | |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1990–1992 | U21-Anh | 11 | (13) |
1992 | England B | 1 | (0) |
1992–2000 | Anh | 63 | (30) |
Sự nghiệp quản lý | |||
Năm | Đội | ||
2009 | Newcastle United | ||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Alan Shearer (sinh 13 tháng 8 năm 1970 ở Gosforth, Northumberland) là một cựu cầu thủ bóng đá, bình luận viên và huấn luyện viên người Anh, Alan Shearer từng khoác áo đội tuyển Anh và 3 câu lạc bộ Premiership của Anh: Southampton, Blackburn Rovers và Newcastle United.
Alan Shearer cao 1m83 – vị trí sở trường là tiền đạo. Hiện tại anh đã giã từ sự nghiệp sân cỏ của mình và đang làm bình luận viên bóng đá cho đài BBC.
Anh đã từng rất thành công ở cấp CLB và đội tuyển quốc gia, Alan đã trở thành một trong những tiền đạo ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại. Anh đã ghi tổng cộng 422 bàn thắng ở CLB và quốc gia, trung bình khoảng 25 bàn trong 1 mùa giải suốt 17 mùa giải anh trải qua. Anh đã lập kỉ lục ghi bàn tại Premier league với 260 bàn. Anh đã giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế từ Euro 2000 và vẫn tiếp tục chơi bóng tại Newcastle United cho đến khi vào năm 2006 anh phải giã từ sự nghiệp sân cỏ do chấn thương.
Sự nghiệp cầu thủ
[sửa | sửa mã nguồn]Southampton (1988-1992)
[sửa | sửa mã nguồn]Ở tuổi 15, Alan Shearer là nam sinh của trường Wallsend Boys Club, anh đã bị CLB Newcastle loại ra khỏi đội trẻ với vị trị thủ môn! (Alan cũng thừa nhận rằng anh chỉ giữ gôn trong một thời gian ngắn mà thôi). Sau đó, anh đã chuyển sang học đá bóng ở CLB Southampton. Anh xuất hiện trên sân lần đầu tiên khi anh là cầu thủ dự bị được vào sân trong trận đấu với Chelsea vào 26 tháng 3 năm 1988. Và một tháng sau, anh phải làm các tờ báo phải giật tít tên anh lên trang bìa khi anh lần đầu ra sân ở đội hình chính của CLB và đã ghi 1 hat – trick vào lưới Arsenal vào ngày 9 tháng 4 năm 1988. Khi đó, Alan chỉ mới 17 tuổi và 240 ngày. Anh đã phá kỉ lục thế giới về cầu thủ trẻ tuổi nhất lập hat – trick tại giải bóng đá chuyên nghiệp, kỉ lục này đã được giữ cho đến khi Alan phá vỡ nó là 30 năm bởi Jimmy Greaves. Alan Shearer đã kết thúc mùa giải 1987–88 với 3 bàn thắng trong 5 trận đấu.
Mặc dù có đầy hứa hẹn về một tương lai tươi sáng, nhưng Shearer chỉ được xem là kẻ thế vai ở đội hình một, chưa ghi tới 10 bàn cho Southampton ở mùa giải 87-86. Nhưng khi tới mùa giải 89 – 90 anh mới thể hiện được mình bằng việc thi đấu cực hay tại Southampton trong 2 mùa giải liền (1889 – 1990, 1990 – 1991). Sự thể hiện của anh hết sức thành công của anh đã được nhiều fan của CLB công nhận và anh được bầu chọn là cầu thủ hay nhất của Southampton năm 1991 mặc dù chỉ ghi được 4 bàn trong 36 trận. Chính vì thế anh vẫn chưa là tay săn bàn của Southampton cho đến mùa giải 1991 – 1992 anh đã ghi được 13 bàn trong 41 trận. Nhờ vậy, anh được gọi vào đội tuyển Anh và được nhiều sự chú ý của các CLB ở PL khác, có thể kể đến là Manchester United.
Blackburn Rovers (1992-1996)
[sửa | sửa mã nguồn]huấn luyện viên đội tuyển Anh thời đó đã chọn Alan vào đội hình để thi đấu tại chung kết Euro 1992 nhưng Alan chỉ thi đấu được một trận (trận gặp Pháp) và chẳng ghi được bàn nào. Và đội tuyển Anh phải dừng lại ở vòng đấu bảng khi để thua Thụy Điển 2-1.
Tuy nhiên, tài năng của Alan Shearer đã được khẳng định tại Ewood Park khi huấn luyện viên Kenny Dalglish đã mua anh từ Southampton với giá 3,3 triệu bảng. Trong khi đó thì ngài Alex Ferguson cũng đang muốn có Alan Shearer nhưng mọi cố gắng của ông đều thất bại.
Alan đã trở thành cầu thủ chính của đội tuyển Anh trong suốt mùa giải ấy, anh đã ghi bàn vào lưới Tiệp Khắc trong trận Anh thằng Tiệp Khắc 4-0 tại vòng loại World Cup 1994. Mùa giải đầu tiên của anh tại Balckburn bị đảo lộn tất cả, anh gần như không thi đấu ở nửa mùa giải đầu (và cả các trận khác tại vòng CK World Cup 1994) vì chấn thương dây chằng trong trận đấu với Leeds United vào 26 tháng 12 năm 1992. Nhưng anh đã ghi 16 bàn thắng trong 21 trận còn lại. Mùa giải kết thúc với đầy khó khăn, anh bị bắt buộc phải vắng mặt trong những trận đấu chính tại vòng loại World Cup 1994 và điều đó đã khiến đội tuyển Anh có nhưng kết quả đáng thất vọng.
Tại Balckburn, anh đã ghi 31 bàn trong 40 trận ở mùa giải 1993-1994, CLB đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai, sau MU. Anh cũng được danh dự được bình chọn là cầu thủ của năm. Nước Anh đã không thể tiến tới vòng CK WC 1994 nhưng Alan cũng ghi 3 bàn cho đội tuyển Anh.
Với sự xuất hiện của Chris Sutton ở mùa giải 94 – 95 đã tạo nên một cặp tiền đạo tấn công cực mạnh với Alan Shearer ở Blackburn với biệt danh "the SAS" - Shearer And Sutton. Alan đã ghi 34 bàn trong 42 trận đấu và giúp Blackburn giành được danh hiệu vô địch PL vào đúng ngày cuối cùng của mùa giải. Đây là danh hiệu lớn nhất trong sự nghiệp thi đấu CLB của anh. Anh cũng được góp mặt vào cúp C1 cùng Blackburn nhưng ClB lại bị loại bởi Trelleborgs FF của Thụy Điển.
Mùa giải 95 – 96 là mùa giải thất vọng của Blackburn khi chỉ đứng thứ 7 ở bảng xếp hạng PL. Alan ghi được 31 bàn trong 35 trận đấu. Anh phải vắng mặt trong 3 trận đáu còn lại ở PL vì chấn thương nhưng anh vẫn cùng đội tuyển Anh trong Euro 1996.
Newcastle United (1996-2006)
[sửa | sửa mã nguồn]Sau Euro 1996, Alan định đầu quân cho MU nhưng sau đó anh chuyển sang thi đấu cho Newcastle United với giá chuyển nhượng là 15M bảng Anh, người đưa anh về Newcastle United không ai khác đó là Kevin Keegan. Alan đã trở thành cầu thủ đắt giá nhất vào thời điểm đó.
Mùa giải đầu tiên của anh tại Newcastle, anh ghi 25 bàn trong 31 trận tại PL, anh cũng có được danh hiệu PFA Player of the Year. Anh giúp Newcastle có vị trí thứ 2 ở bảng xếp hạng mặc dù anh vắng mặt ở nhiều trận đấu vì chấn thương. Sau mùa giải ấy thì Keegan đã ra đi và thay vào đó là Kenny Dalglish.
Tháng 7 năm 1997, Shearer phải trải qua một cuộc giải phẫu mắt cá chân khi anh bị chấn thương ở trận gặp Everton, chấn thương này đã phần lớn hạn chế anh ra sân ở mùa giải 1997 - 1998. Anh chỉ ghi được 2 bàn thắng trong 17 trận và Newcastle phải ở vị trí thứ 13 tại bảng xếp hạng. Nhưng dù sao thì Newcastle cũng tiến tới trận chung kết cúp FA Cup cùng Arsenal nhưng để thua 2 – 0. Shearer đã suýt ghi bàn trong trận đó,
Ở nửa cuối mùa giải, cả dư luận đã tranh cãi quanh việc Shearer đá vào đầu Neil Lennon ở trận gặp Leicester City. Anh may mắn không bị hình phạt của The Football Association sau khi đe dọa sẽ từ bỏ sự nghiệp thi đấu quốc tế nếu anh vẫn bị ức chế về tai nạn này.
Mùa giải 1998 – 1999, anh đã ghi 14 trong 30 trân đấu. Anh giúp Newcastle lần thứ 2 liên tiếp vào CK cúp FA gặp MU nhưng để thua 2 – 0 tại sân Wembley. Mùa giải kết thúc, Newcastle đứng ở vị trí thứ 13. Kenny Dalglish đã bị sa thải sau mùa giải thất vọng đó và thay vào vị trí huấn luyện viên là Ruud Gullit.
Shearer lại bị chấn thương và mất cả mùa giải 2000 – 2001, anh từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế sau Euro 2000. Anh chỉ ghi được 5 bàn trong 19 trận đấu. Mùa giải sau có vẻ khá hơn khi anh ghi được 23 bàn trong 37 trận đấu và kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 4 (cao nhất từ 1997 tới nay). Anh được gọi vào đội tuyển Anh và các fan đều mong đợi anh sẽ vào đội tuyển nhưng anh đã từ chối lời gọi ấy.
Mùa giải 2002 – 2003, Newcastle trở lại UEFA Champions League. CLB đã để thua cả 3 trận đầu tiên tại vòng bảng nhưng đã thắng cả 3 trận còn lại để vào vòng 2 (đội bóng duy nhất làm được điều đó từ trước cho đến nay). Tổng cộng suốt mùa giải anh ghi 17 bàn trong 35 trận đấu.
Sau đó, Newcastle lại có cơ hội trở lại Champions League proper năm 2003 nhưng lại đánh mất cơ hội đó khi thua Partizan Belgrade trên chấm penalties và Shearer đã đá hỏng quả penalty của anh. Mùa giải 2004 – 2005, anh chỉ ghi được 7 bàn trong 28 trận.
Shearer cho biết rằng anh sẽ giã từ sự nghiệp sân cỏ khi mùa giải 2004–05 kết thúc nhưng dưới sự tác động của huấn luyện viên Graeme Souness đã đã quyết định tiếp tục chơi bóng vừa huấn luyện cầu thủ cho đến khi mùa giải sau kết thúc. Trong khoảng thời gian đó, anh đã phá kỉ lục của Jackie Milburn ghi 200 bàn thắng cho Newcastle. Anh đã ghi bàn thắng thứ 201 vào lưới Portsmouth vào ngày 4 tháng 2 năm 2006. Một vài nguồn tin đã phủ nhận điều đó khi họ cho rằng Milburn đã ghi tổng 238 bàn trong những trận ở thế chiến thứ 2 nhưng dù sao đi nữa thì Shearer cũng thi đấu ít hơn 5 trận.
17 tháng 4 năm 2006, khi chỉ còn 3 trận đấu cuối cùng của sự nghiệp đá bóng, anh đã phải bật khóc khi anh không thể thi đấu được nữa vì bị chấn thương đầu gối trong trận thắng Sunderland 4 -1, anh ghi bàn thứ 206. Ngày 22 tháng 4 năm 2006, anh chính thức giã từ nghiệp sân cỏ. Mùa giải cuối cùng anh ghi 10 bàn trong 32 trận đấu.
Ngày 11 tháng 5 năm 2006, Newcastle đã gặp Celtic, một trận đầu dành để tôn vinh huyền thoại của Newcaslte tại sân St James' Park. Ngoài ra, còn các vị khách danh dự khác là Steve Watson, Gary Speed, Rob Lee và Les Ferdinand. Anh không thể thi đấu trong trận đó nhưng anh đã khai trận cho trận đấu và đá thành công trong loạt sút 11m giúp Newcastle giành chiến thắng. Mọi tiền lấy được từ trận đấu đều được quyên vào hội từ thiện North East, NSPCC (Shearer đứng đầu) và quỹ Bobby Moore.
Shearer cũng được chọn vào OBE vào tháng 6 năm 2001 và the Freedom of the City of Newcastle upon Tyne vào tháng 3.
Thống kê các bàn thắng trong các trận bóng quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Huấn luyện viên
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ | Quốc gia | Từ ngày | Đến ngày | Thống kê | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tr | Th | H | T | % Th | ||||
Newcastle United | Anh | 1 tháng 4, 2009 | 24 tháng 5, 2009 | 8 | 1 | 2 | 5 | 12,50 |
Kỉ lục qua các mùa giải
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa giải | Câu lạc bộ | Số trận tại League |
Số trận tại tất cả các giải | Bàn thắng League | Tổng bàn thắng |
1987-88 | Southampton | 5 | 5 | 3 | 3 |
1988-89 | Southampton | 10 | 10 | 0 | 0 |
1989-90 | Southampton | 26 | 35 | 3 | 5 |
1990-91 | Southampton | 36 | 48 | 4 | 14 |
1991-92 | Southampton | 41 | 60 | 13 | 21 |
Tổng | 118 | 158 | 23 | 43 | |
1992-93 | Blackburn Rovers | 21 | 26 | 16 | 22 |
1993-94 | Blackburn Rovers | 40 | 48 | 31 | 34 |
1994-95 | Blackburn Rovers | 42 | 49 | 34 | 37 |
1995-96 | Blackburn Rovers | 35 | 48 | 31 | 37 |
Tổng | 138 | 171 | 112 | 130 | |
1996-97 | Newcastle United | 31 | 40 | 25 | 28 |
1997-98 | Newcastle United | 17 | 23 | 2 | 7 |
1998-99 | Newcastle United | 30 | 40 | 14 | 21 |
1999-00 | Newcastle United | 37 | 50 | 23 | 30 |
2000-01 | Newcastle United | 19 | 23 | 5 | 7 |
2001-02 | Newcastle United | 37 | 46 | 23 | 27 |
2002-03 | Newcastle United | 35 | 48 | 17 | 25 |
2003-04 | Newcastle United | 37 | 51 | 22 | 28 |
2004-05 | Newcastle United | 28 | 42 | 7 | 19 |
2005-06 | Newcastle United | 32 | 41 | 10 | 14 |
Tổng | 303 | 404 | 148 | 206 | |
Tổng cộng | 559 | 733 | 283 | 379 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Southampton
- Full Members' Cup á quân: 1991–92[2]
Blackburn Rovers
Newcastle United
Quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Đội tuyển Anh
- UEFA European Championship huy chương đồng: 1996[6]
U21 Anh
- Toulon Tournament: 1991[7]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Hugman, Barry J. (2005). The PFA Premier Football League Players' Records 1946–2005. Queen Anne Press. tr. 556. ISBN 1-85291-665-6.
- ^ “FOREST REWIND IN ASSOCIATION WITH FOOTBALL INDEX - ZENITH DATA SYSTEMS CUP TRIUMPH”. Nottingham Forest FC. 29 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2022.
- ^ “Alan Shearer: Overview”. Premier League. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2018.
- ^ Moore, Glenn (18 tháng 5 năm 1998). “Football: Gunners train sights on European glory”. The Independent. London. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2018.
- ^ Moore, Glenn (24 tháng 5 năm 1999). “Football: Gullit salutes the true United”. The Independent. London. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2018.
- ^ “На Евро-2016 медали вручат только победителям и финалистам - Российская газета”. Российская газета. Truy cập 3 tháng 10 năm 2023.
- ^ “19th Maurice Revello Tournament: Awards”. festival-foot-espoirs.com. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2020.
- England profile
- FootballDatabase profile
- Profile Lưu trữ 2006-02-13 tại Wayback Machine at 4thegame.com
- Profile Lưu trữ 2006-07-18 tại Wayback Machine at premierleague.com
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Alan Shearer. |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |