Uranyl(VI) chloride
Uranyl(VI) chloride | |
---|---|
Danh pháp IUPAC | Dichlorodioxouranium |
Tên khác | Urani(VI), điclorođioxy |
Nhận dạng | |
Số CAS | |
PubChem | |
Số EINECS | |
Ảnh Jmol-3D | ảnh |
SMILES | đầy đủ
|
InChI | đầy đủ
|
Thuộc tính | |
Công thức phân tử | UO2Cl2 |
Khối lượng mol | 340,9322 g/mol (khan) 358,94748 g/mol (1 nước) 394,97804 g/mol (3 nước) 431,0086 g/mol (5 nước) |
Bề ngoài | tinh thể màu vàng nhạt rất hút ẩm[1] |
Khối lượng riêng | 5,39 g/cm³ (khan) 4,35 g/cm³ (1 nước) 3,54 g/cm³ (3 nước)[2] |
Điểm nóng chảy | 775 °C (1.048 K; 1.427 °F) (thăng hoa)[1] |
Điểm sôi | phân hủy |
Độ hòa tan trong nước | 320 g/100 mL (18 ℃), xem thêm bảng độ tan |
Độ hòa tan trong dung môi | tan trong aceton, cồn không tan trong benzen[1] tạo phức với nhiều phối tử vô cơ và hữu cơ |
Các nguy hiểm | |
MSDS | MSDS ngoài |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa). |
Uranyl(VI) chloride, công thức hóa học: UO2Cl2 là một hợp chất hóa học không bền, có màu vàng tươi của urani. Nó tạo thành các tinh thể lớn giống như cát, có thể hòa tan nhiều trong nước, rượu và ete. Uranyl(VI) chloride tạo ra hai hydrat chính, UO2Cl2·H2O và UO2Cl2·3H2O, bị phân hủy khi có ánh sáng, một sự thật được Adolph Gehlen phát hiện vào năm 1804. Độ nhạy sáng này thường xuyên thu hút sự tò mò của giới khoa học và nhiều nỗ lực không thành công trong việc phát triển các ứng dụng nhiếp ảnh bằng cách sử dụng muối này. Giống như các muối uranic khác, hợp chất này cũng có tính huỳnh quang.
Uranyl(VI) chloride tạo thành khi cho khí clo đi qua urani(IV) oxit ở nhiệt độ cao. Tuy nhiên, nó thường thu được nhiều hơn bằng cách hòa tan urani oxit trong axit clohydric và làm bay hơi dung dịch.
Tầm quan trọng trong công nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Công ty Indian Rare Earths Limited (IREL) đã phát triển một quy trình để chiết xuất urani từ các cồn cát ven biển phía Tây và phía Đông của Ấn Độ. Sau khi xử lý sơ bộ bằng máy tách từ cường độ cao và nghiền mịn, khoáng cát (được gọi là monazit), được trộn với xút ăn da ở khoảng 120 °C (248 °F; 393 K) và nước. Hydroxide thu được sẽ cho cô đặc rồi tiếp tục trộn với axit clohydric đậm đặc để hòa tan tất cả các hydroxide nói trên, tạo thành một dung dịch bao gồm các chloride của urani và các nguyên tố đất hiếm khác bao gồm thori. Dung dịch được chiết xuất dung môi với hệ dung môi kép để tạo ra uranyl(VI) chloride và thori(IV) oxalat. Dung dịch uranyl(VI) chloride thô sau đó được tinh chế thành amoni điuranat.
Sức khỏe và môi trường
[sửa | sửa mã nguồn]Uranyl(VI) chloride rất độc khi hít phải và nếu nuốt phải, gây tích lũy trong gan và thận. Nó là chất độc đối với các sinh vật sống dưới nước, và có thể gây ra những ảnh hưởng xấu lâu dài đến môi trường nước. Giống như tất cả các hợp chất của urani, nó có tính phóng xạ ở một mức độ phụ thuộc vào tỷ lệ đồng vị của nó.
Hợp chất khác
[sửa | sửa mã nguồn]UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với NH3, như UO2Cl2·2NH3 là chất rắn màu cam, UO2Cl2·3NH3 là chất vô định hình màu đỏ cam, UO2Cl2·4NH3 là bột vô định hình màu đỏ cam đậm[3] hay UO2Cl2·6NH3 là tinh thể màu lục.[4]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với N2H4, như UO2Cl2·4N2H4 là chất rắn màu vàng lục.[5]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với CO(NH2)2, như UO2Cl2·2CO(NH2)2·H2O là tinh thể màu lục nhạt-vàng, UO2Cl2·3CO(NH2)2·H2O là tinh thể màu vàng[6] hay UO2Cl2·4CO(NH2)2 là tinh thể màu lục nhạt-vàng.[7]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với CON3H5, như UO2Cl2·3CON3H5 là tinh thể vàng nhạt, phân hủy ở 215 °C (419 °F; 488 K).[8]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với CON4H6, như UO2Cl2·2CON4H6·nH2O là tinh thể vàng, nóng chảy ở 306 °C (583 °F; 579 K).[9]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với CS(NH2)2, như UO2Cl2·2CS(NH2)2 là tinh thể màu vàng sáng.[10]
UO2Cl2 còn tạo một số hợp chất với CSN4H6, như UO2Cl2·2CSN4H6 là tinh thể vàng, nóng chảy ở 318 °C (604 °F; 591 K).[11]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c URANYL CHLORIDE | 7791-26-6 trên ChemicalBook
- ^ Handbook… (Pierre Villars, Karin Cenzual, Roman Gladyshevskii; Walter de Gruyter GmbH & Co KG, 24 thg 7, 2017 - 1970 trang), trang 443; 1058. Truy cập 5 tháng 3 năm 2021.
- ^ Gmelin's Handbook of Inorganic Chemistry, System Number 55 (Uranium and Isotopes). (Leopold Gmelin; Technical Information Branch, AEC, 1949 - 242 trang), trang 155. Truy cập 6 tháng 3 năm 2021.
- ^ Patrick Woidy, Antti J. Karttunen, Florian Kraus – Uranyl Halides from Liquid Ammonia: [UO2(NH3)5]Cl2·NH3 and [UO2F2(NH3)3]2·2NH3 and Their Decomposition Products [UO2Cl2(NH3)3] and [UO2F2(NH3)3]. ChemInform 44 (3), tháng 1 năm 2013. doi:10.1002/chin.201303021.
- ^ Coordination Compounds (Karl-Christian Buschbeck; Springer Berlin Heidelberg, 19 thg 7, 1979), trang 27. Truy cập 6 tháng 3 năm 2021.
- ^ Coordination Compounds (Karl-Christian Buschbeck; Springer Berlin Heidelberg, 19 thg 7, 1979), trang 83. Truy cập 20 tháng 4 năm 2021.
- ^ Complex Compounds of Uranium (Akademiia nauk SSSR. Institut obshchei i neorganicheskoi khimii, Ilʹi︠a︡ Ilʹich Cherni︠a︡ev; Israel Program for Scientific Translations, 1966 - 520 trang), trang 307. Truy cập 6 tháng 3 năm 2021.
- ^ Chaa Cha – COMPLEXES OF URANYL ION WITH DIMETHYLFORMAMIDE AND SEMICARBAZIDE. J. Inorg. Nucl. Chem., 1963, 25, tr. 1111–1113.
- ^ Revue Roumaine de Chimie, Tập 37,Trang 965-1416 (1992), trang 1128. Truy cập 13 tháng 3 năm 2021.
- ^ Russian Journal of Inorganic Chemistry, Tập 6,Số phát hành 7-12 (British Library Lending Division with the cooperation of the Royal Society of Chemistry, 1961), trang 783. Truy cập 7 tháng 4 năm 2021.
- ^ Acta Chimica Hungarica, Tập 128,Trang 1-453 (Akadémiai Kiadó, 1991), trang 76. Truy cập 7 tháng 4 năm 2021.
- “Uranium”. Encyclopædia Britannica. V27. 1911. tr. 788.
- Heyes, S.J. (1998). “Lanthanides & Actinides”. Four Lectures in 2nd Year Inorganic Chemistry. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2011.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Settle, Frank. “Nuclear Chemistry and the Community”. www.chemcases.com: General Chemistry Case Studies. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2011.