Thích Trí Thủ
thích trí thủ 釋智首 | |
---|---|
Tên khai sinh | Nguyễn Văn Kính |
Pháp danh | Tâm Như |
Pháp tự | Đạo Giám |
Pháp hiệu | Trí Thủ |
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Xuất gia | 1926 Chùa Tra Am, Huế |
Thụ giới | Sadi 1929 Chùa Từ Vân, Đà Nẵng |
Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam | |
Nhiệm kỳ | |
7 tháng 11 năm 1981 | – 2 tháng 4 năm 1984|
Tiền nhiệm | chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Thích Trí Tịnh |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Nguyễn Văn Kính |
Ngày sinh | 1 tháng 11, 1909 |
Nơi sinh | Triệu Phong, Quảng Trị |
Mất | |
Ngày mất | 2 tháng 4, 1984 | (74 tuổi)
Nơi mất | Tu viện Quảng Hương Già Lam, Thành phố Hồ Chí Minh |
Giới tính | nam |
Thân quyến | |
Nguyễn Văn Minh | |
Lê Thị Nậy | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Thích Trí Thủ (tên khai sinh Nguyễn Văn Kính,[1] 1909 – 1984) là một tu sĩ Phật giáo Việt Nam, là một trong những người đi đầu trong công cuộc xúc tiến quá trình thống nhất nền Phật giáo Việt Nam sau chiến tranh, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, thống nhất từ các tổ chức Phật giáo riêng lẻ, ông đã được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Trị sự đầu tiên của giáo hội này.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Văn Kính sinh ngày 1 tháng 11 năm 1909, tại làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; xuất thân từ dòng họ từng có nhiều vị hòa thượng, thiền sư nổi tiếng.[2]
Xuất thân từ gia đình mộ đạo Phật, từ nhỏ Nguyễn Văn Kính đã đọc, viết thành thạo các bài kinh nhật tụng. Năm 14 tuổi, ông theo bác ruột học kinh Phật ở chùa Hải Đức, Huế. Năm 17 tuổi, ông được Bổn sư Viên Thành nhận làm đệ tử tại chùa Tra Am, Huế; pháp danh Tâm Như, pháp tự Đạo Giám nối pháp đời thứ 43 của thiền tông Lâm Tế. Năm 20 tuổi, ông thọ giới Sadi tại chùa Từ Vân (Đà Nẵng), được bổn sư Viên Thành ban pháp hiệu là Thích Trí Thủ, với ý khen tặng chữ Thủ nghĩa là đứng đầu.
Năm 23 tuổi, sau hai năm để tang bổn sư Viên Thành, Thích Trí Thủ cùng các pháp lữ tới chùa Thập Tháp (Bình Định) tham học với Hòa thượng Phước Huệ; học xong, ông làm giáo thọ tại trường Phật học Phổ Thiên tại Đà Nẵng.
Sau ông về Huế cùng đồng học tại chùa Thập Tháp ngày trước tổ chức trường Phật học tại chùa Tây Thiên, mời hòa thượng Phước Huệ, Giác Nhiên về giảng dạy, đồng thời mời các nhân sĩ trí thức như Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Cao Xuân Huy,... dạy các môn văn hóa theo trình độ đại học. Trong thời gian này ông cũng giảng dạy đồng thời tại các cơ sở Phật học khác như Hội Phật học Huế, lớp Trung đẳng Phật học (cũng mở tại chùa Tây Thiên), trường Tiểu học Phật giáo (tại chùa Báo Quốc).
Năm 1938, tốt nghiệp trường Phật học Tây Thiên, ông về trụ trì chùa Ba La Mật nhưng vẫn tiếp tục công việc giảng dạy cho hội và các trường Phật học.
Sau pháp nạn 1963, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ra đời, Thích Trí Thủ nắm giữ Tổng vụ Hoằng pháp; hoằng pháp và giáo dục tăng ni là mối quan tâm hàng đầu của ông, Thích Trí Thủ đã mở ba đại hội hoằng pháp: một tại Phật học viện Nha Trang, một tại chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và một tại chùa Ấn Quang (Chợ Lớn).
Sau khi Việt Nam được thống nhất, ông đã liên hệ với lãnh đạo các hệ phái và tổ chức Phật giáo tại Việt Nam để xúc tiến việc thống nhất Phật giáo Việt Nam. Năm 1981, sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, ông đắc cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Ông qua đời vào ngày 2 tháng 4 năm 1984 tại Quảng Hương Già Lam.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Tiểu sử Hòa thượng Thích Trí Thủ”. Thư viện Hoa Sen. 9 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2015.
- ^ “Lược sử Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984)”. Giác Ngộ Online. 14 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2017.