Cổng thông tin:Phật giáo
Phật
Văn-thù-sư-lợi là một vị bồ-tát tượng trưng cho trí huệ, một trong những vị bồ-tát quan trọng của Phật giáo. Lần đầu tiên người ta nhắc đến Văn-thù trong tác phẩm Văn-thù-sư-lợi căn bản nghi quỹ ở thế kỉ thứ 4. Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa, được vẽ khoảng ngang đầu. Người ta xem đó là biểu tượng trí huệ phá đêm tối của vô minh. Về sau chúng ta thường thấy Văn-thù cưỡi trên một con sư tử.
Theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, Văn-thù được Phật Thích-ca đích thân giao phó việc truyền bá Phật pháp tại đây và Ngũ Đài sơn chính là nơi bồ-tát thuyết pháp. Vì vậy, Ngũ Đài sơn cũng được xem là trụ xứ của Văn-thù. Một thuyết khác bảo rằng, bồ-tát đã từng xuất hiện tại Trung Quốc trong thế kỉ 1, đời Hán Minh Đế.
Pháp
Tụng kinh là xướng đọc lên những lời giáo huấn của Phật thông qua các kinh điển do Phật tuyên thuyết. Tụng kinh là một trong những phương pháp tu tập, được thực hành rộng rãi ở mọi tông phái khác nhau của Phật giáo trong các thời lễ nhằm cầu an, cầu siêu cho người đã khuất hoặc sám hối những ác nghiệp mà Phật tử đã gây ra trong quá khứ hay đôi khi đơn giản là học thuộc lòng, quán xét kinh văn một cách thấu đáo. Tụng kinh được thực hiện bởi tứ chúng đệ tử bao gồm các những người đã xuất gia hoặc những người tu tại gia. Thông thường, người ta thường hay tụng kinh trước tôn tượng, hình ảnh của Phật, bồ-tát.
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, người ta thường tụng đọc kinh điển bằng tiếng Pali hoặc bằng tiếng bản xứ. Theo truyền thống Đại thừa, việc tụng kinh thường đi kèm với việc sử dụng pháp khí như mõ, chuông, khánh nhằm tạo nên nhịp điệu cho thời kinh; thông thường, mỗi ngày thường có hai thời khóa tụng kinh là công phu sáng và công phu tối.
Tăng
Trúc Lâm đại sĩ là một thiền sư Việt Nam, ông đã hợp nhất ba dòng thiền chính thời Trần là Vinītaruci, Thảo Đường, Vô Ngôn Thông thành thiền phái Trúc Lâm và trở thành tổ sư của dòng thiền này. Đây được xem là giáo hội thống nhất đầu tiên của đạo Phật tại Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm vừa tiếp thu nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, vừa sử dụng các giá trị văn hóa Việt Nam và khuyến khích Phật tử cống hiến cho xã hội trên nền tảng Từ bi – Trí tuệ của Phật pháp. Ông cũng xây dựng nhiều tự viện và đi giáo hóa trong cả nước, cả ở thôn quê lẫn thành thị. Trên cương vị là thượng hoàng-thiền sư, ông đã dạy dân bài trừ các tập tục mê tín, dị đoan và tu dưỡng đức hạnh theo giáo pháp Thập thiện. Ông vẫn góp ý cho Anh Tông một số vấn đề chính sự, đồng thời khuyên bảo vua con từ bỏ rượu chè và cúng dường cho tăng chúng.
Hình ảnh
Kinh điển
Kinh Duy-ma-cật sở thuyết là một tác phẩm quan trọng của Phật giáo Đại thừa, có ảnh hưởng rất lớn đến nền Phật giáo tại Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Kinh xuất hiện khoảng thế kỉ thứ 2 sau Công nguyên, mang tên của Vimalakīrti, một cư sĩ giàu có, sống cuộc đời thế tục nhưng vẫn đi trên con đường Bồ-tát. Nhờ kinh này mà người ta có thể xem cư sĩ và tăng sĩ có một mục đích như nhau trên đường tiến đến giác ngộ.
Điều may mắn hiếm có là Phạn bản của kinh này - được cho là thất truyền từ bao nhiêu thế kỉ - đã được Giáo sư Takahashi Hisao phát hiện ngày 30 tháng 6 năm 1999, trong khi ông cùng nhóm nghiên cứu đang sưu tầm thư tịch trong thư viện của cung điện Potala, kinh đô Lhasa, Tây Tạng. Sau hơn bốn năm nghiên cứu và ký âm la-tinh, bản này được nhóm Nghiên cứu Văn học Phật giáo Sanskrit, Viện Đại học Taisho, Tōkyō phát hành tháng 3 năm 2004. Chất lượng văn bản khá tốt mặc dù còn nhiều lỗi ghi chép, cần được chỉnh lại trước khi dịch. Tuy nhiên, việc cho ra một bản khảo cứu vẫn còn là một điều đáp ứng được, đòi hỏi một công trình nghiên cứu, đối chiếu phục hồi văn bản hẳn hoi.
Tông phái
Tịnh độ tông là một pháp môn quyền khai của Phật giáo, trường phái này được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam do cao tăng Trung Quốc Huệ Viễn sáng lập và được Hōnen phát triển tại Nhật. Mục đích của Tịnh độ tông là tu học nhằm được tái sinh tại cõi Cực lạc Tịnh độ của Phật A-di-đà.
Đặc tính của tông này là lòng tin nhiệt thành nơi Phật A-di-đà và sức mạnh cứu độ của vị Phật này, là vị đã thệ nguyện cứu độ mọi chúng sinh quán tưởng đến mình. Vì thế chủ trương tông phái này có khi được gọi là "tín tâm", thậm chí có người cho là "dễ dàng", vì chỉ trông cậy nơi một lực từ bên ngoài là Phật A-di-đà. Phép tu của Tịnh độ tông chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A-di-đà và quán tưởng cực lạc. Ba bộ kinh quan trọng của Tịnh Độ tông là: Vô lượng thọ, A-di-đà và Quán Vô Lượng Thọ.
Trích dẫn
« Nếu người muốn biết cảnh giới Phật, Ý căn thanh tịnh như hư không, Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ, Khiến tâm khắp nơi đều vô ngại. »
Hoa nghiêm kinh
Bài viết
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa Phật giáo nằm trên núi Bái Đính, Việt Nam. Nơi đây là một khu phức hợp bao gồm một ngôi chùa cổ ban đầu và một ngôi chùa lớn hơn mới được xây dựng. Đây được coi là quần thể chùa Phật giáo lớn nhất Việt Nam và đã trở thành địa điểm nổi tiếng cho các cuộc hành hương của tín đồ Phật giáo và du khách từ khắp Việt Nam.
Thư mục
Một phần của loại bài về |
Phật giáo |
---|
Cổng thông tin Phật giáo |
- Bộ phái: Đại chúng bộ, Trưởng lão bộ, Nhất thiết hữu bộ, Độc tử bộ (+), Tuyết sơn bộ (+), Xích đồng diệp bộ, Ẩm quang bộ (+), Pháp tạng bộ (+), Hóa địa bộ
- Tạng truyền: Gelugpa, Sakya, Nyingma, Kagyu, Jonang (+), Giác-vũ phái (+), Godrag (+), Shalu (+)
- Hán truyền: Thiền tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Kim cương thừa, Pháp tướng tông, Luật tông, Tam luận tông, Tịnh độ tông, Câu-xá tông, Thành thật tông
- Nam truyền, Tiểu thừa, Đại thừa, Duy thức tông, Trung quán tông, Như Lai tạng học phái (+)
- Tam pháp ấn (+), Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Bát chính đạo, Tam thập thất bồ-đề phần, Tam bảo, Ngũ uẩn, Duyên khởi, Niết-bàn, Tam học, Thập nhị nhân duyên, Xá lị, Nhân quả luận (+), Vô thường, Vô sắc giới (+), Vô ngã, Bát bộ chúng, A-lại-da thức, Vô minh, Ngã chấp (+), Luân hồi, Niết-bàn, Giới, Bát-nhã, Khổ, Sáu cõi luân hồi, Ngũ trọc (+), Phật âm (+), Thiền, Nhẫn (+), Đao-lợi thiên (+), Tứ đại bộ châu (+)
- Phật, Bồ tát, A-la-hán, Xuất gia chúng (+), Tại gia chúng (+), Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Thiên vương, Pháp luân
- Siddhārtha Gautama, Thập đại đệ tử, Hoàng hậu Māyā, Vua Ashoka, Kumārajīva, Nāgārjuna, Vasubandhu, Vimuktisena (+), Dharmaratna, Mahinda, Śāriputra
- Huệ Viễn, Bodhidharma, Thiện Đạo, Trí Nghĩ, Hoằng Nhẫn, Huyền Trang, Huệ Năng, Thần Tú, Thần Hội, Giám Chân
- Padmasambhava, Tsongkhapa, Khejok Rinpoche (+), Garchen Rinpoche, Khyentse Norbu (+)
- Thái tử Shotoku, Dōgen, Hakuin Ekaku, Saichō, Kūkai, Shinran, Nichiren
- Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông, Thích Quảng Đức
- Buddhaghosa, Mahasi Sayadaw (+)
- Trường A-hàm kinh, Khởi thế kinh (+), Trung A-hàm kinh, Tạp A-hàm kinh, Tăng nhất A-hàm, Bách dụ kinh (+), Kinh Pháp cú, Tự thuyết kinh (+), Đại Bàn-nhược kinh (+), Phóng quang Bàn-nhược kinh (+), Kim cương kinh, Bát-nhã tâm kinh, Nhân vương hộ quốc kinh (+)
- Pháp hoa tam bộ kinh (+) (Pháp hoa kinh, Vô lượng nghĩa kinh, Phật thuyết quán Phổ Hiền bồ-tát hành pháp kinh (+)), Hoa nghiêm kinh, Đại bảo tích kinh (+), Vô lượng thọ kinh (+), Quán Vô Lượng Thọ kinh, A-di-đà kinh, Niết bàn kinh, Pháp diệt tẫn kinh (+), A-di-đà cổ âm thanh vương đà-la-ni kinh (+), A-súc Phật quốc kinh (+), Văn-thù-sư-lợi Phật thổ nghiêm tịnh kinh (+), Thắng Man kinh, Đại phương đẳng đại tập kinh (+), Địa Tạng bồ-tát bổn nguyện kinh (+), Ban chu tam muội kinh (+)
- Phật thuyết tứ thập nhị chương kinh (+), Thập thiện nghiệp đạo kinh (+), Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai bổn nguyện công đức kinh (+), Bảo khiếp kinh (+), Nhập Lăng-già kinh, Viên giác kinh, Thủ-lăng-nghiêm-tam-muội kinh, Giải thâm mật kinh, Âm trì nhập kinh (+), Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Chiêm sát thiện ác nghiệp báo kinh (+), An bàn thủ ý kinh (+), Mật nghiêm kinh (+), Phật thuyết tội nghiệp ứng báo giáo hóa địa ngục kinh (+)
- Lăng-nghiêm kinh, Đại Nhật kinh, Kim cương đỉnh kinh (+), Đại bi tâm đà-la-ni kinh (Chú đại bi), Phật thuyết đà-la-ni tập kinh (+), Đại thừa Vô lượng thọ kinh (+), Ma kha tăng chỉ luật (+), Tứ phân luật (+), Bồ-tát giới bổn (+), Thiện kiến luật Bì-bà-sa (+)
- Đại trí độ luận (+), Thập địa kinh luận (+), A-tì-đạt-ma Đại-bì-bà-sa luận (+), A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, Lục túc luận (+), Thập trụ Bì-bà-sa luận (+), A-tì-đạt-ma thức thân túc luận (+), Trung luận, Bách luận (+), Thập nhị môn luận (+), Du già sư địa luận (+), Thành duy thức luận (+), Đại thừa Trang nghiêm kinh luận (+)
- Thành thật luận (+), Nhân Minh nhập chính lý luận (+), Đại thừa khởi tín luận, Thanh tịnh đạo, Pháp bảo đàn kinh, Tông kính lục (+), Mật chú viên nhân vãng sinh tập (+), Tịnh thổ thập nghi luận (+)
- Phật tổ thống kỷ (+), Phật tổ thông tái (+), Lương cao tăng truyện, Tục cao tăng truyện (+), Tống cao tăng truyện (+), Cảnh Đức Truyền đăng lục, Đại Đường Tây Vực ký, Hoằng Minh tập (+), Quảng hoằng minh tập (+), Lạc Dương già-lam ký (+), Ngũ đăng hội nguyên (+), Đại Từ Ân tự Tam Tạng pháp sư truyện (+)
- Pháp uyển châu lâm (+), Nhất thiết kinh âm nghĩa (+), Khai Nguyên Thích giáo lục, Âm trì nhập kinh (+), An bàn thủ ý kinh (+)
- Đại tạng kinh, Càn Long Đại tạng kinh, Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, Ba-lợi tam tạng (+), Vĩnh Nhạc bắc tạng (+), Tạng văn Đại tạng kinh (+), Triệu Thành kim tạng (+), Bát vạn Đại tạng kinh
- Bát đại thánh địa (+): Lumbini, Bodh Gaya, Sarnath, Shravasti, Sankissa (+), Rajgir, Vaishali, Kushinagar
- Tứ đại danh sơn: Phổ Đà sơn, Ngũ Đài sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa sơn
- Cung điện Potala, Angkor Wat, Borobudur, Nalanda
Nội dung khác : Lịch sử Phật giáo, Âm nhạc Phật giáo (+), Nghệ thuật Phật giáo