Thành viên:Phuongcacanh/thử
Từ năm 1976, ở Việt Nam đã chủ trương đào tạo trên đại học trong cả nước. Một số trường, cơ sở đào tạo lớn bắt đầu đào tạo phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) là mốc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền giáo dục đại học ở Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực bậc cao. Nhà nước Việt Nam chủ trương phong hàm giáo sư, phó giáo sư cho đội ngũ nhà giáo và các nhà khoa học. Điều này có ý nghĩa lớn đối với sự nghiệp đào tạo sau đại học
Lần phong đầu tiên
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 11 tháng 9 năm 1976, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 162/CP về việc phong hàm giáo sư, phó giáo sư cho 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu đã được nhà nước tôn vinh phong hàm giáo sư đầu tiên của Việt Nam là:
Sử học
[sửa | sửa mã nguồn]Văn học
[sửa | sửa mã nguồn]Triết học
[sửa | sửa mã nguồn]Toán học
[sửa | sửa mã nguồn]Vật lý
[sửa | sửa mã nguồn]Hóa học
[sửa | sửa mã nguồn]Y học
[sửa | sửa mã nguồn]- Đặng Văn Chung
- Hồ Đắc Di
- Vũ Công Hòe
- Đỗ Xuân Hợp
- Đặng Vũ Hỷ
- Nguyễn Xuân Nguyên
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Nội
- Trương Công Quyền
- Phạm Ngọc Thạch
- Đinh Văn Thắng
- Hoàng Tích Trí
- Tôn Thất Tùng
- Trần Hữu Tước
Nông học
[sửa | sửa mã nguồn]Cơ khí
[sửa | sửa mã nguồn]Những lần phong sau
[sửa | sửa mã nguồn]Sau đợt phong hàm giáo sư đầu tiên, Chính phủ đã tổ chức xét và công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư nhiều đợt vào các năm: 1980, 1984, 1988, 1991 và 1996. Tong các đợt này, gần 4000 nhà giáo và nhà khoa học đã được phong hàm giáo sư, phó giáo sư.
- Năm 1980, giáo sư 83, phó giáo sư 347
- Năm 1984, giáo sư 117, phó giáo sư 664
- Năm 1986, giáo sư 6, phó giáo sư 10
- Năm 1988, giáo sư 14, phó giáo sư 87
- Năm 1989, giáo sư 2,
- Năm 1991, giáo sư 247, phó giáo sư 727
- Năm 1992, giáo sư 140, phó giáo sư 719
- Năm 1996, giáo sư 210, phó giáo sư 771
- Năm 1997, giáo sư 2 [1]
Ngày 17 tháng 5 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2001/NĐ-CP "Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức danh giáo sư, phó giáo sư". Theo nghị định này, việc xét và phong hàm giáo sư, phó giáo sư được thực hiện theo từng năm.
- Năm 2001, giáo sư 96, phó giáo sư 391
- Năm 2002, giáo sư 115, phó giáo sư 553
- Năm 2003, giáo sư 62, phó giáo sư 388
- Năm 2004, giáo sư 38, phó giáo sư 302
- Năm 2005, giáo sư 41, phó giáo sư 312
- Năm 2006, giáo sư 44, phó giáo sư 411
- Năm 2007, giáo sư 54, phó giáo sư 445 [2]
- Đội ngũ giáo sư, phó giáo sư được phong nhiều nhất ở các ngành: Y, Kinh tế, Toán, Lý, Hóa, Nông nghiệp ...
Những giáo sư gần gũi với quần chúng
[sửa | sửa mã nguồn]- Những giáo sư là lãnh đạo nhà nước; Nguyễn Thị Doan-ngành kinh tế (phong năm 2003); Nguyễn Phú Trọng-ngành chính trị học (phong năm 2002); Nguyễn Thiện Nhân-ngành kinh tế (phong năm 2002)
- Những giáo sư làm khoa học quân sự: Vũ Lăng (1986), Hoàng Minh Thảo (1986), Hoàng Điền (1986), Phạm Hồng Sơn (1986), Đỗ Trình (1986), Đoàn Huyên (1986), Đặng Ngọc Giao (1991), Ngô Vi Thiện (1992) ... [3]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Nguyễn Ngọc Điệp, Vài nét về phong hàm giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học giáo dục Biên phòng sô 4; 9-2008
- ^ Nguyễn Ngọc Điệp, Vài nét về phong hàm giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học giáo dục Biên phòng sô 4; 9-2008
- ^ Nguyễn Ngọc Điệp, Vài nét về phong hàm giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học giáo dục Biên phòng sô 4; 9-2008