Tình yêu tìm lại
Silver Linings Playbook
| |
---|---|
Poster | |
Đạo diễn | David O. Russell |
Kịch bản | David O. Russell |
Dựa trên | The Silver Linings Playbook của Matthew Quick |
Sản xuất | |
Diễn viên | |
Quay phim | Masanobu Takayanagi |
Dựng phim | |
Âm nhạc | Danny Elfman |
Phát hành | The Weinstein Company |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 122 phút[1] |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | en |
Kinh phí | $21 triệu[2] |
Doanh thu | $236,4 triệu[2] |
Tình yêu tìm lại (tựa gốc tiếng Anh: Silver Linings Playbook[3][gc 1]) là bộ phim tình cảm hài lãng mạn của Mỹ được sản xuất năm 2012, đạo diễn bởi David O. Russell[5] dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Matthew Quick. Bộ phim có sự tham gia của Bradley Cooper và Jennifer Lawrence, cùng với Robert De Niro, Jacki Weaver, Chris Tucker, Anupam Kher và Julia Stiles trong các vai phụ.
Bradley Cooper vào vai Pat Solitano, một bệnh nhân bị rối loạn lưỡng cực vừa được trả về với gia đình sau thời gian điều trị tâm thần. Khao khát lấy lại tình cảm từ người vợ cũ, Pat gặp phải một góa phụ trẻ nghiện tình dục Tiffany Maxwell (Jennifer Lawrence). Tiffany đề nghị Pat giúp đỡ tham gia vào một cuộc thi nhảy để đổi lại sẽ giúp anh liên lạc với người vợ của mình. Suốt quá trình luyện tập, mối quan hệ của 2 người dần trở nên khăng khít. Pat, bố của anh (Robert De Niro) và Tiffany cuối cùng đã tới một thử thách quan trọng để đối diện với tất cả những vấn đề của họ.
Silver Linings Playbook lần đầu được trình chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào ngày 8 tháng 9 năm 2012, sau đó được trình chiếu tại Mỹ vào ngày 16 tháng 11 cùng năm[6]. Từ đây bắt đầu vô số những thành công về thương mại cũng như chuyên môn mà bộ phim gặt hái được. Bộ phim nhận được tới 8 đề cử giải Oscar, trong đó có cả bốn đề cử quan trọng nhất về diễn xuất (kỷ lục lần đầu tiên lặp tại kể từ bộ phim Reds năm 1981), và cả năm đề cử quan trọng nhất của năm – Big Five (cũng là kỷ lục kể từ bộ phim Cô gái triệu đô năm 2004)[7]. Đây cũng là bộ phim tình cảm hài duy nhất trong danh sách 9 phim được đề cử Oscar 2013 cho Phim xuất sắc nhất[4]. Tại đây, Jennifer Lawrence đã được vinh dự trao giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất[8]. Bộ phim cũng có được 4 đề cử tại giải Quả cầu vàng mà Lawrence cũng giành được giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất; 3 đề cử ở BAFTA mà đạo diễn Russell được trao giải Chuyển thể kịch bản xuất sắc nhất; tại giải thưởng của Hội Diễn viên Điện ảnh, bộ phim cũng có 4 đề cử và Lawrence cũng có được giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất; đây cũng là bộ phim xuất sắc nhất tại giải Tinh thần độc lập 2012 và Lawrence một lần nữa là Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất[9][10][11][12]. Cùng với đó, bộ phim có được doanh thu chiếu rạp khổng lồ với khoảng 236 triệu đô la Mỹ trên toàn thế giới, gấp hơn 11 lần kinh phí sản xuất.
Nội dung cốt truyện
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2008, Pat Solitano Jr. (Bradley Cooper) trở về với gia đình sau 8 tháng điều trị trong bệnh viện tâm thần vì chứng rối loạn lưỡng cực. Trong thời gian ở đó, Pat kết thân với một bệnh nhân khác tên là Danny (Chris Tucker), một bệnh nhân luôn tranh cãi với bệnh viện về việc trả anh lại cuộc sống bình thường. Pat nhanh chóng nhận ra rằng người vợ cũ Nikki (Brea Bee) đã rời đi và cha của anh (Robert De Niro) đã thất nghiệp và phải chơi cá độ bóng đá[gc 2] để có tiền mở một nhà hàng nhỏ. Pat quyết định trở lại cuộc sống cũ của mình với việc giảng hòa với Nikki, người vốn đang có lệnh cấm của tòa án đối với Pat sau một thời gian bạo lực đã từng dẫn anh ta tới hành vi ngộ sát.
Khi được điều trị với bác sĩ Patel (Anupam Kher) đã kể lại những gì khiến anh phải vào trại tâm thần: một lần về nhà sớm, anh đã thấy Nikki lăng nhăng với người khác. Vì quá tức giận, anh đã đánh gần chết gã đàn ông kia. Vì thế anh cho rằng mình không cần thuốc để điều trị tâm thần.
Trong một bữa tối ở nhà người bạn thân Ronnie (John Ortiz), anh được gặp người em vợ của Ronnie, Tiffany Maxwell (Jennifer Lawrence) dù còn trẻ song đã trở thành góa phụ và cũng vừa bị đuổi việc. Tình bạn giữa Pat và Tiffany ngày một tốt đẹp, cũng một phần vì Tiffany hứa hẹn giúp anh liên lạc với Nikki. Tiffany đề nghị Pat tập nhảy cùng cô, đổi lại cô sẽ chuyển thư mà anh viết cho Nikki. Anh đồng ý và cả hai bắt đầu quá trình tập luyện, đôi lúc có sự giúp đỡ của Danny, người rốt cuộc cũng được ra khỏi bệnh viện tâm thần. Pat tin rằng cuộc thi nhảy sẽ là dịp hiếm có để anh chứng minh cho Nikki, rằng anh đã trở lại làm một người đàn ông tốt. Tiffany đã gửi bức thư trả lời từ Nikki mà trong đó cô từ chối việc hòa giải.
Mọi thứ vẫn tốt đẹp cho tới khi người cha đề nghị Pat tới xem trận bóng của Philadelphia Eagles mà ông đã đặt một số tiền rất lớn với sự mê tín rằng anh là "bùa may mắn". Pat cũng có buổi tập với Tiffany ngày đó, nhưng rồi vướng vào một cuộc đánh lộn với một nhóm phân biệt chủng tộc trước trận đấu và rồi bị giữ bởi cảnh sát. Đội Eagles thua trận, và Pat bố trở nên tức giận. Tiffany tới, quở mắng ông và nhấn mạnh vào việc "chú ý những dấu hiệu" khi Eagles thực tế toàn thắng vào những hôm mà cô và Pat ở cùng nhau. Pat bố bị thuyết phục rằng Tiffany là một điều may mắn, song vì thế ông quyết định làm một đặt cược kép rất lớn: ông cược tất cả tài sản và sẽ thắng người bạn thân nếu Eagles giành chiến thắng trước đội Dallas, cùng lúc Pat và Tiffany kiếm được ít nhất 5.0/10 điểm ở cuộc thi nhảy. Pat trở nên do dự khi tham gia cuộc thi nhảy với điều kiện này; song Pat bố và Tiffany đã thuyết phục được anh bằng cách nói dối rằng Nikki sẽ tới. Song Pat đã tự tách mình ra khỏi cuộc nói chuyện, đọc lại bức thư trả lời của Nikki và phát hiện ra câu "chú ý những dấu hiệu" mà Tiffany vừa nhắc tới.
Pat, Tiffany, và tất cả mọi người cùng tới cuộc thi nhảy vào buổi tối của trận đấu bóng. Tiffany bị sốc nặng khi thấy Nikki xuất hiện. Pat đi tìm Tiffany và thấy cô đang ngồi uống rượu với một chàng trai lạ, và quyết đem cô trở lại cuộc thi. Trong lúc họ nhảy, Eagles giành chiến thắng thuyết phục và họ cũng giành được điểm số 5.0 như yêu cầu.
Cả Pat và Tiffany đều rất phấn chấn. Sau màn ăn mừng cùng gia đình dưới những ánh mắt khó hiểu của đám đông, Pat tiến lại Nikki và nói thầm vào tai cô. Tiffany nhìn thấy điều đó và bỏ đi. Pat rời Nikky sau vài câu nói chuyện và quay lại tìm Tiffany. Pat bố nói với anh rằng Tiffany đã đi rồi, và tiết lộ với anh rằng cô rất yêu anh và đây là cơ hội lớn của cuộc đời mà anh phải nắm lấy. Pat cũng nói với bố rằng anh yêu ông, và đuổi theo Tiffany để nói rằng anh biết cô đã giả mạo bức thư của Nikki. Anh thổ lộ tình cảm của mình, nói rằng đã yêu cô ngay từ lần gặp đầu tiên song đã mất quá nhiều thời gian để nhận ra điều đó, và họ hôn nhau.
Bộ phim kết thúc với cảnh trong nhà của Pat, khi Pat bố cùng bạn đang ngồi xem trận bóng đá, em trai của Pat và Ronnie chơi bài. Sau đó là cảnh Danny và mẹ của Pat đang nấu trong bếp, Tiffany âu yếm nhìn Pat với chiếc cốc nước trong tay, rồi cô bước tới và ngồi vào lòng anh.
Diễn xuất
[sửa | sửa mã nguồn]- Bradley Cooper trong vai Patrick "Pat Jr." Solitano[13][14][15].
- Jennifer Lawrence trong vai Tiffany Maxwell[16][17].
- Robert De Niro trong vai Patrizio "Pat Sr." Solitano[14][15].
- Jacki Weaver trong vai Dolores Solitano[18].
- Chris Tucker trong vai Danny McDaniels, người bạn thân của Pat, người mà Pat gặp tại trung tâm điều trị tâm thần Baltimore.
- Julia Stiles trong vai Veronica Maxwell[19].
- Anupam Kher trong vai bác sĩ Cliff Patel[20].
- Brea Bee trong vai Nikki Solitano.
- Shea Whigham trong vai Jake Solitano.
- John Ortiz trong vai Ronnie, chồng của Veronica.
- Paul Herman trong vai Randy.
- Dash Mihok trong vai sĩ quan Keogh.
Sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]The Weinstein Company đã mua bản quyền chuyển thể từ cuốn sách và nhắm tới 2 đạo diễn kì cựu Sydney Pollack và Anthony Minghella để thực hiện, song cả hai người đều qua đời vào năm 2008[21]. Pollack đã để lại cuốn sách cho Russell, nhấn mạnh rằng kịch bản sẽ rất khó khăn khi đây là một câu chuyện xúc động, đầy rắc rối song lại vô cùng hài hước và lãng mạn. Russell ước tính rằng mình đã phải viết lại kịch bản không dưới 20 lần trong vòng 5 năm. Russell có thể tự đặt mình vào câu chuyện vì những lý do gia đình và cũng vì người con trai của anh cũng bị chứng rối loạn lưỡng cực và cả rối loạn ám ảnh cưỡng chế[22][23].
Bộ phim được quay trong khoảng thời gian 33 ngày. Một bản nháp cực đại và một bản khá u tối được quay trước với nhân vật của De Niro, hoặc là gia trưởng hơn hoặc là hòa nhã hơn, và Russell cùng biên tập viên Jay Cassidy đã cùng nghiên cứu trước khi chọn ra sự cân bằng cần thiết[22].
Địa điểm được chọn là Upper Darby và Ridley Park, 2 cộng đồng dân cư nhỏ ở ngoại ô Philadelphia, Pennsylvania. Cho dù không được nhắc tới trong bộ phim, song 2 địa danh này vẫn được kể tên trong danh sách giới thiệu ở cuối phim, và người xem cũng có thể thấy dòng chữ "RPPD"[gc 3] trên phù hiệu của viên sĩ quan.
Bộ phim cũng chọn bối cảnh là giai đoạn lượt về của giải NFL 2008[24] mà ta có thể thấy đội Philadelphia Eagles tiến tới vòng play-offs. Rất nhiều trận đấu đã được nhắc tới, trong đó có những chiến thắng của Eagles trước Seattle và San Francisco, cũng như trận thua trước Washington Redskins và New York Giants (trận đấu mà Pat bỏ lỡ vì cuộc đánh nhau trước trận) và chiến thắng trước Dallas trong ngày cuối cùng của mùa giải.
Casting
[sửa | sửa mã nguồn]Russell ban đầu định chọn 2 diễn viên Vince Vaughn và Zooey Deschanel cho 2 vai chính, song vào lúc đó ông lại chuyển sang nhận lời thực hiện bộ phim The Fighter[22][23][25]. Mark Wahlberg cũng đã nhận lời 4 lần trước khi từ chối vì việc trì hoãn quá trình quay phim đã làm ảnh hưởng nhiều tới kế hoạch riêng của anh[26].
Russell đã từng mời Bradley Cooper cho dự án chuyển thể tác phẩm Pride and Prejudice and Zombies, song dự án lại đổ bể. Vai diễn của Cooper trong Wedding Crashers đã gây ấn tượng với Russell (gọi Cooper "một chàng trai giỏi thừa nhiệt huyết") và nói: "Bạn sẽ không biết rằng anh ấy đến từ đâu."[27] Cooper nhận xét về Russell "ông ta mạnh mẽ hơn, dễ cáu hơn và còn đáng sợ hơn tôi nữa" khi được phỏng vấn về cảm xúc khi nhận lời dự án. Russell thì tỏ ra rõ ràng là hào hứng khi Cooper sẽ đảm bảo vai diễn thành công của Pat Solitano[22][23].
Anne Hathaway vốn là lựa chọn cho vai Tiffany Maxwell, tuy nhiên vì đang kẹt với dự án The Dark Knight Rises, cô buộc phải từ chối[13]. Rất nhiều nữ diễn viên khác đã được mời song đều không nhận vai, có thể kể tới Elizabeth Banks, Kirsten Dunst, Angelina Jolie, Blake Lively, Rooney Mara, Rachel McAdams, Andrea Riseborough và Olivia Wilde[23][25][26][28][29].
Russell ban đầu không nghĩ rằng Lawrence có thể thể hiện được hết vai diễn này, và màn gọi điện thử vai vốn chỉ là thủ tục[23][25]. Ông cho rằng Lawrence (21 tuổi vào lúc đó) còn quá trẻ để đóng bên đàn anh Cooper (37 tuổi), song màn thử vai đã khiến ông thay đổi ý định. "Khả năng biểu cảm đặc biệt ở đôi mắt và khuôn mặt cô ấy, mà rất nhiều ngôi sao phải lao động mới có được, thật sự vô giá."[21][30] Russell so sánh Lawrence với Tiffany, miêu tả cô như một trong những người ít bị kích động nhất mà ông biết, cho rằng niềm tin và cả ánh mắt của cô rất cần thiết cho vai diễn này[21]. Tiffany được xây dựng với nhiều tranh luận. Ban đầu, cô ta được miêu tả là một goth đích thực. Lawrence phải nhuộm đen tóc và chấp nhận hóa trang rất cầu kỳ, song Harvey Weinstein lại không thích điều đó. Nhân vật được chỉnh sửa thành một kẻ bừa bãi, với chút tính goth được biểu lộ ở màu tóc đen và một chiếc vòng cổ thập giá[21]. Để thêm bất ngờ, Russell đề nghị Lawrence tăng cân để vào vai[31]. Russell cũng đề nghị Lawrence nói bè giọng, cho dù Lawrence cho rằng giọng bè vốn có của cô "đã nghe giống một thầy tu nghiện thuốc" lắm rồi[21].
Theo báo Entertainment Weekly, Lawrence ban đầu thấy mình không thể vào vai Tiffany, song lại rất vui vì vai diễn này. "Cô ta là kiểu người không thể hiểu được 100%... Cô ta là kiểu "Tôi rất bừa. Tôi không giống như những người khác, tôi bốc mùi. Lấy cái gì hoặc vứt đi cái gì là vì tôi thích thế"."[32]
Cả Lawrence lẫn Cooper đều không hề có một chút kinh nghiệm với khiêu vũ. Chỉ trong vòng 1 tháng, Mandy Moore – vũ công trong So You Think You Can Dance – đã dạy cả hai diễn viên tập đoạn nhảy yêu cầu. Moore nói về Cooper "có sẵn những tố chất khiêu vũ"[33][34], còn Lawrence thì phì cười vì điều đó bởi trước khi bắt đầu luyện tập, cô gần như không biết nhảy "tôi giống như một ông bố cố tham gia buổi khiêu vũ đêm vậy"[31]. Lawrence sau đó cũng nói về khung cảnh sàn nhảy thi đấu "Chưa có một thứ gì được hình dung ra từ trước cả. Không một thứ gì. Tôi là một vũ công tồi, và tôi sẽ chẳng bao giờ có khả năng làm điều đó cả. Khi tất cả được hoàn tất, đoạn phim hiện ra hài hước như chính nó vậy."[32]
Phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Bộ phim được trình chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Toronto vào ngày 8 tháng 9 năm 2012[35], tại đây bộ phim giành được giải thưởng phim hay nhất do khán giả bình chọn[36]. Bộ phim được chiếu hạn chế tại Mỹ kể từ ngày 16 tháng 11, rồi dần được chiếu rộng rãi[35]. Đây cũng là bộ phim mở màn Liên hoan phim Mumbai vào ngày 18 tháng 10 năm 2012[37][38].
The Weinstein Company vốn không có ý định công chiếu rộng rãi bộ phim này, với giới hạn dự kiến vào khoảng 2.000 rạp. Sau những phản ứng tích cực về chuyên môn cũng như doanh thu qua đợt Lễ Tạ ơn, họ quyết định thành lập một chiến dịch mở rộng tương đối từ tốn với từng rạp chiếu một, cùng với đó là thúc đẩy hình thức quảng bá truyền miệng[39][40][41]. Cho tới ngày 25 tháng 12, bộ phim đã được trình chiếu thêm ở 700 rạp[42].
- Home cinema
Silver Linings Playbook được bày bán dưới ấn bản DVD và Blu-ray kể từ ngày 1 tháng 4 tại Anh và 30 tháng 4 năm 2013 tại Mỹ[43].
Đón nhận của công chúng
[sửa | sửa mã nguồn]Đánh giá chuyên môn
[sửa | sửa mã nguồn]Khi được trình chiếu lần đầu tiên ở Liên hoan phim quốc tế Toronto 2012, Silver Linings Playbook đã có ngay được những phản hồi vô cùng tích cực. Bộ phim được nhận chứng chỉ "Certified Fresh" với mức đánh giá 92% trong tổng số 233 lượt thông qua Rotten Tomatoes với điểm số trung bình là 8.1/10[44]. Metacritic tổng hợp các đánh giá từ 100 nhà phê bình danh tiếng nhất cũng dành cho bộ phim điểm trung bình 81% dựa trên 45 đánh giá, cùng với đó là chú thích "chứng chỉ toàn cầu"[45].
Cooper, Lawrence, De Niro và Weaver đều được đánh giá cao trong vai diễn của mình, song đặc biệt các lời phê bình đều ca ngợi Cooper và Lawrence[46][47][48][49][50][51][52][53]. Kevin Jagernauth của tờ The Playlist ca ngợi bộ phim như "một sản phẩm giải trí thú vị, hài lòng khán giả từ đạo diễn mà các khía cạnh hài hước chưa bao giờ lại có thể rõ ràng hơn" và đặc biệt ưa thích 2 vai diễn chính "không gì có thể hay được tới vậy mà không có những vai diễn được trau chuốt cẩn thận và được đặc biệt chú trọng. Bradley Cooper và Jennifer Lawrence, những người có thể đang thể hiện những gì tốt nhất sự nghiệp của họ, xứng đáng với các giải thưởng qua các vai diễn này"[54]. David Rooney của The Hollywood Reporter nói "sự hòa quyện giữa Cooper và Lawrence khiến họ trở nên rất đáng xem, và mối quan hệ khó khăn giữa họ không ngăn được một sự cuốn hút của cả hai" và cho rằng phần diễn của toàn bộ tập thể diễn viên cũng rất đáng khen cho dù chỉ là những vai nhỏ. Rooney cũng nhấn mạnh tới "sự bừa bãi đầy sinh lực" và "thứ năng lượng tức tối" trong bố trí khung cảnh[53]. Richard Corliss của tạp chí Time cũng hoan nghênh phần thể hiện của 2 diễn viên chính, đặc biệt là Lawrence: "Phần diễn của họ đã là quá đủ để người ta tới rạp. Lý do để người ta phải ở lại xem chính là Lawrence. Mới chỉ có 21 tuổi, Lawrence là trường hợp diễn viên hiếm hoi vừa diễn vừa trưởng thành."[52]
Phần đạo diễn của Russell cũng được đánh giá cao. Justin Chang của tạp chí Variety viết về bộ phim: "Không cảm thấy ngượng ngùng trước một bộ phim hài, David O. Russell đã tấn công tới những căn bệnh tâm lý, thất bại hôn nhân và cả tình yêu bóng đá với những hiệu quả vô cùng rõ ràng và mãn nhãn."[55] Eric Kohn của IndieWire tặng cho bộ phim điểm "A-", đề cao vai diễn của Cooper và Lawrence cùng với phần đạo diễn của Russell và viết "vừa làm đạo diễn vừa viết kịch bản, Russell đã gom những vai diễn nhỏ vào trong một vở hài kịch lãng mạn tới bất ngờ tới một thời điểm – theo đúng nghĩa đen của nó – lẫn lộn giữa hoài nghi và ngọt ngào đi kèm với một thành công vang dội."[56] Ann Hornaday của The Washington Post nhấn mạnh rằng "đạo diễn rất quan trọng. Với bất kể ai khác, việc chuyển thể tác phẩm của Matthew Quick có thể sẽ trở thành một thứ nhàm chán kiểu không thuộc vai, hoặc tệ hơn, kiểu tự kỷ châm biếm khuôn sáo."[57]
Roger Ebert dành cho bộ phim 3.5/4 sao và viết rằng bộ phim "quá hay, thậm chí có thể thành một kiểu kinh điển" và cho rằng phần kịch bản của Russell rất "tài tình" trong việc khéo léo lồng 2 vấn đề của người cha và con trong vụ cá độ cuối phim[58]. Kenneth Turan viết bộ phim "là thành công từ một cá nhân duy nhất [Russell]" song phần diễn của các diễn viên là "tuyệt hảo", trong đó vai của Chris Tucker là vai phụ "không thể cưỡng lại"[59]. Steven Rea của The Philadelphia Inquirer cho rằng bộ phim là "một nỗ lực siêu việt, từ một kịch bản quá thông minh... cho tới những phần tương tác không thể ngờ tới giữa 2 diễn viên chính."[60] Ricardo Baca của The Denver Post khi được hỏi rằng liệu bộ phim có quá hay như đồn đại hay không, đã trả lời: "Thực tế thì không. Tất cả những xì xào đều xứng đáng hết với họ. Bộ phim rất ý nghĩa này đã tạo nên tiếng cười, những băn khoăn và cả sự hài lòng ngay từ trailer và vẫn giữ nguyên điều đó suốt 2 tiếng của câu chuyện tình."[61] Peter Travers của tạp chí Rolling Stone gọi đây "là một trong những bộ phim hay nhất năm. Hay tới phát điên."[62]
David Denby của tờ The New Yorker thì cho rằng bộ phim là "một sự thiếu tính toán từ đầu tới cuối" và gọi vai của Cooper là một nhân vật "chán ngắt" song lại thích thú kể từ sự xuất hiện của nhân vật Tiffany[63]. Richard Brody cũng của tờ The New Yorker lại chỉ trích phần viết kịch bản "các nhân vật được tạo ra chỉ để thực hiện yêu cầu của họ" và không dành cho các diễn viên sự cuốn hút mà bộ phim đem lại[64]. Robbie Collin của The Daily Telegraph coi bộ phim "làm mệt mỏi sự vô vị để dẫn tới sự lộn xộn" và mối quan hệ trung tâm của bộ phim không có gì đặc sắc. Ông cho rằng nhân vật chính khá "lan man" và căn bệnh thần kinh của anh thực tế là một chứng tính thất thường và cũng chê bai việc bộ phim không giải thích lý do vì sao Tiffany lại quan tâm tới anh ta. Ông cho rằng Lawrence là điểm sáng duy nhất của bộ phim với lý do rằng cô đã phải đóng một vai quá phức tạp chỉ với vài nguyên liệu sơ khai, song ông cũng đánh giá tốt Russell đã biết khai thác cô[65].
Giải NFL bị chỉ trích nhiều về việc tổ chức cá cược và đã từ chối buổi phỏng vấn cùng Bradley Cooper và Chris Tucker trong thời gian Lễ Tạ ơn[66].
Doanh thu
[sửa | sửa mã nguồn]Bộ phim kiếm được 443.003$ tại 16 địa điểm ngay trong tuần đầu công chiếu, cạnh tranh trực tiếp với 2 bom tấn Skyfall và Lincoln[67]. Sau khi mở thêm tới 367 điểm chiếu ở tuần thứ 2, bộ phim đã đạt mức doanh thu 4,4 triệu $. Tới ngày 30 tháng 12, theo thống kê ở 745 rạp, doanh thu đã trên 27,3 triệu[68]. Tới ngày 18 tháng 1 năm 2013, con số tăng thêm 12,1 triệu khi số rạp đã đạt tới 2.523, và tổng doanh thu đạt 56,7 triệu $. Ở tuần thứ 2 sau khi mở rộng số rạp, doanh thu cũng chỉ giảm 12.2%[69]. Gitesh Pandya dự đoán rằng theo đà này bộ phim có thể chạm ngưỡng 100 triệu $ thậm chí xa hơn nếu số lượt xem vẫn giữ vững qua các tuần[70].
Ray Subers cũng cho rằng bộ phim có thể đạt mốc 100 triệu $. Ông nhấn mạnh rằng bộ phim khởi đầu chậm chạp, song lại tiến nhanh một cách vững chãi qua tháng 12, và mang theo nó một lượng lớn người hâm mộ Lawrence và Cooper quảng bá bộ phim[71]. Tới ngày 19 tháng 2 năm 2013, bộ phim vượt qua doanh thu 100 triệu $ ở Bắc Mỹ[72]. Tới ngày 19 tháng 3, bộ phim lập nên một kỳ tích vang dội khi có số doanh thu gấp 11 lần kinh phí sản xuất
Danh sách top 10
[sửa | sửa mã nguồn]- Cinemablend xếp bộ phim ở vị trí số 8 trong danh sách 10 phim hay nhất của năm[73].
- Nhà phê bình Catherine Shoard của tờ The Guardian xếp bộ phim ở vị trí số 4 trong danh sách 10 phim hay nhất của năm[74].
- Darwin TV xếp bộ phim ở vị trí số 2 trong danh sách 5 bộ phim hay nhất năm.
Đề cử và giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày trao giải | Giải thưởng | Hạng mục | Đề cử cho | Thành tích |
---|---|---|---|---|
24 tháng 2 năm 2013 | Giải Oscar[75][76] | Phim xuất sắc nhất | Bruce Cohen, Donna Gigliotti và Jonathan Gordon | Đề cử |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Jacki Weaver | Đề cử | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất | Đề cử | |||
Biên tập xuất sắc nhất | Jay Cassidy và Crispin Struthers | Đề cử | ||
11 tháng 1 năm 2013 | Viện phim Mỹ[77] | Phim của năm | Đoạt giải | |
Tháng 1 năm 2013 | Giải thưởng phim quốc tế AACTA[78] | Phim xuất sắc nhất | Bruce Cohen, Donna Gigliotti và Jonathan Gordon | Đoạt giải |
Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Kịch bản xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
18–25 tháng 10 năm 2012 | Liên hoa phim Áo[79] | Giải thưởng bình chọn của khán giả | David O. Russell | Đoạt giải |
10 tháng 2 năm 2013 | BAFTA[80][81] | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử |
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
10 tháng 1 năm 2013 | Critics' Choice Awards[82] | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
Dàn diễn viên xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Kịch bản xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Phim hài xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
Nam diễn viên chính phim hài xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên chính phim hài xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
14 tháng 12 năm 2012 | Hội các nhà phê bình phim Detroit[83] | Phim xuất sắc nhất | Đoạt giải | |
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đoạt giải | ||
Tập thể xuất sắc nhất | Đề cử | |||
Kịch bản xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
18 tháng 1 năm 2013 | Hiệp hội phê bình phim Georgia[84] | Phim xuất sắc nhất | Đoạt giải | |
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất | Jacki Weaver | Đề cử | ||
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Tập thể xuất sắc nhất | Đoạt giải | |||
13 tháng 1 năm 2013 | Giải Quả cầu vàng[85] | Phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất | Đề cử | |
Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Kịch bản xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
26 tháng 11 năm 2012 | Giải tự do Gotham[86] | Tập thể xuất sắc nhất | Đề cử | |
7 tháng 10 năm 2012 | Liên hoan phim quốc tế Hamptons[87] | Giải bình chọn của khán giả – Cốt truyện xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải |
22 tháng 10 năm 2012 | Liên hoan phim Hollywood[88] | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đoạt giải |
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc | Robert De Niro | Đoạt giải | ||
5 tháng 1 năm 2013 | Hiệp hội phê bình phim Houston[89] | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải |
23 tháng 2 năm 2013 | Giải Tinh thần độc lập[90] | |||
Phim hay nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Kịch bản hay nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
21 tháng 2 năm 2013 | Hiệp hội phê bình nhạc phim quốc tế | Nhạc sĩ sáng tác nhạc phim của năm | Danny Elfman (cùng với Dark Shadows, Frankenweenie, Men in Black 3, Hitchcock, và Promised Land) | Đoạt giải |
Sáng tác hòa âm cho phim hài xuất sắc nhất | Danny Elfman | Đề cử | ||
18 tháng 1 năm 2013 | Hiệp hội phê bình phim Iowa | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
5 tháng 12 năm 2012 | Ủy ban Quốc gia về Phê bình Điện ảnh[91] | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đoạt giải |
Kịch bản chuyển thể hay nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
13 tháng 12 năm 2012 | Hội các nhà phê bình phim Las Vegas[92] | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải |
9 tháng 12 năm 2012 | Hiệp hội phê bình phim Los Angeles | Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (chia sẻ với Emmanuelle Riva) | Jennifer Lawrence | Đoạt giải |
14 tháng 4 năm 2013 | MTV Movie Awards[93] | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | |
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đoạt giải | ||
Nụ hôn của năm | Bradley Cooper và Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Khoảnh khắc nhạc phim xuất sắc nhất | Bradley Cooper và Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
11 tháng 12 năm 2012 | Hội các nhà phê bình phim San Diego[94] | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | |
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất | Đề cử | |||
Dàn diễn viên xuất sắc nhất | Đề cử | |||
26 tháng 1 năm 2013 | Giải thưởng của Hội Đạo diễn Mỹ | Phim xuất sắc nhất | Bruce Cohen, Donna Gigliotti, Jonathan Gordon | Đề cử |
16 tháng 12 năm 2012 | Giải Vệ tinh[95] | Phim xuất sắc nhất | Đoạt giải | |
Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đoạt giải | ||
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
Đạo diễn xuất sắc nhất | David O. Russell | Đoạt giải | ||
Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
Biên tập xuất sắc nhất | Jay Cassidy | Đoạt giải | ||
24 tháng 1 – 3 tháng 2 năm 2013 | Liên hoan phim quốc tế Santa Barbara[96] | Diễn viên của năm | Jennifer Lawrence | Đoạt giải |
27 tháng 1 năm 2013 | Giải thưởng của Hội Diễn viên Điện ảnh[97] | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử |
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất | Robert De Niro | Đề cử | ||
Dàn diễn viên xuất sắc nhất | Đề cử | |||
17 tháng 12 năm 2012 | Hiệp hội phê bình điện ảnh St. Louis[98] | Nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Bradley Cooper | Đề cử |
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đề cử | ||
Kịch bản xuất sắc nhất | David O. Russell | Đề cử | ||
6–16 tháng 9 năm 2012 | Liên hoan phim quốc tế Toronto[36][99] | Giải thưởng bình chọn của khán giả | David O. Russell | Đoạt giải |
10 tháng 12 năm 2012 | Hiệp hội phê bình phim Washington D.C.[100] | Phim xuất sắc nhất | Đề cử | |
Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất | Jennifer Lawrence | Đoạt giải | ||
Kịch bản chuyển thể hay nhất | David O. Russell | Đoạt giải |
Nhạc phim
[sửa | sửa mã nguồn]Soundtrack
[sửa | sửa mã nguồn]Silver Linings Playbook: Original Motion Picture Soundtrack | |
---|---|
Album soundtrack của nhiều nghệ sĩ | |
Phát hành | 16 tháng 11 năm 2012 (tải kỹ thuật số) |
Thể loại | Soundtrack |
Thời lượng | 45:36 |
Hãng đĩa | Sony / EAN |
Đĩa đơn từ Silver Linings Playbook: Original Motion Picture Soundtrack | |
|
Đánh giá chuyên môn | |
---|---|
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
Allmusic | [101] |
Silver Linings Playbook: Original Motion Picture Soundtrack là bản soundtrack chính thức của bộ phim, phát hành tại Mỹ bởi Sony Music Entertainment vào ngày 16 tháng 11 năm 2012 theo định dạng kỹ thuật số.[102]
Đĩa đơn từ album, "Silver Lining (Crazy 'Bout You)" cũng có được vị trí số 100 tại The Official Charts Company[103]. Phần soundtrack cũng bao gồm một số ca khúc của Stevie Wonder, Dave Brubeck Quartet, Alt-J, Eagles of Death Metal, Jessie J và 2 ca khúc hòa âm sáng tác bởi Danny Elfman.
STT | Nhan đề | Nghệ sĩ | Thời lượng |
---|---|---|---|
1. | "Silver Lining Titles" | Danny Elfman | 3:12 |
2. | "My Cherie Amour" | Stevie Wonder | 2:52 |
3. | "Always Alright" | Alabama Shakes | 4:04 |
4. | "Unsquare Dance" | The Dave Brubeck Quartet | 2:01 |
5. | "Buffalo" | Alt-J cùng Mountain Man | 3:15 |
6. | "The Moon of Manakoora" | Les Paul & Mary Ford | 2:46 |
7. | "Monster Mash" | CrabCorps | 3:36 |
8. | "Goodnight Moon" | Ambrosia Parsley & The Elegant Too | 4:02 |
9. | "Now I'm a Fool" | Eagles of Death Metal | 3:42 |
10. | "Walking Home" | Danny Elfman | 1:04 |
11. | "Girl from the North Country" | Bob Dylan và Johnny Cash | 3:40 |
12. | "Silver Lining (Crazy 'Bout You)" | Jessie J | 3:24 |
13. | "Hey Big Brother" | Rare Earth | 4:45 |
14. | "Maria" (Bernstein Plays Brubeck Plays Bernstein) | The Dave Brubeck Quartet | 3:20 |
Nhạc nền hòa tấu
[sửa | sửa mã nguồn]Phần sáng tác hòa tấu của Danny Elfman cho bộ phim được Sony Music Entertainment phát hành cùng lúc với album soundtrack.
Silver Linings Playbook | ||||
---|---|---|---|---|
Nhạc nền phim của Danny Elfman | ||||
Phát hành | 16 tháng 11 năm 2012 | |||
Thể loại | Nhạc hòa tấu | |||
Thời lượng | 20:27 | |||
Hãng đĩa | Sony Music | |||
Thứ tự album của Danny Elfman | ||||
|
STT | Nhan đề | Thời lượng |
---|---|---|
1. | "Silver Lining Titles" | 3:11 |
2. | "Running Off" | 2:01 |
3. | "Simple" | 1:55 |
4. | "With a Beat" | 2:17 |
5. | "Tiny Guitars" | 1:01 |
6. | "Walking Home" | 1:04 |
7. | "Silver Lining Wild-Track" | 2:57 |
8. | "The Book" | 0:41 |
9. | "Happy Ending" | 3:52 |
10. | "Goof Track" | 1:28 |
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
- Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Silver Linings Playbook”. BBFC. ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b “Silver Linings Playbook”. Box Office Mojo. IMDb. 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Megastar Cineplex – "Tình yêu tìm lại"”. ngày 12 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
- ^ a b “'Silver Linings Playbook', điên dại và ngọt ngào”. ngày 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2013.
- ^ Connelly, Brendon (ngày 28 tháng 3 năm 2009). “David O. Russell to Direct Silver Linings Playbook”. /Film. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Release dates for Silver Linings Playbook”. IMDb. Amazon.com. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Oscars: Silver Linings surprise contender, while Lincoln dominates”. BBC News. ngày 10 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Jennifer Lawrence wins best actress Oscar for Silver Linings Playbook”. The Guardian. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
- ^ “The 85th Annual Academy Awards”. IMDb. Amazon.com. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
- ^ “The 70th Annual Golden Globe Awards”. IMDb. Amazon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
- ^ “2013 BAFTA Awards”. IMDb. Amazon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
- ^ “2013 Film Independent Spirit Awards”. IMDb. Amazon.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
- ^ a b Wales, George (ngày 2 tháng 8 năm 2011). “Bradley Cooper joining the Silver Linings Playbook?”. TotalFilm.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b Anderton, Ethan (ngày 2 tháng 8 năm 2011). “Bradley Cooper Back on Silver Linings Playbook with Robert De Niro”. FirstShowing.net. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b Fleming, Mike (ngày 1 tháng 8 năm 2011). “Bradley Cooper Back In Silver Linings Playbook Talks, Robert De Niro Too”. Deadline.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Jennifer Lawrence to Star in the Silver Linings Playbook”. Zimbio.com. ngày 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Silver Linings Playbook Interview – Jennifer Lawrence (2012) Comedy”. Youtube.com. ngày 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Oscar-Nominated 'Animal Kingdom' Actress in Talks to Join 'Silver Lining Playbook'”. The Hollywood Reporter. ngày 26 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2011.
- ^ Dew, Blake (ngày 6 tháng 10 năm 2011). “Julia Stiles Joins David O. Russell's Silver Linings Playbook”. WeGotThisCovered.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ Klein, Michael (ngày 23 tháng 10 năm 2011). “Bollywood star steps out at Tashan”. Philly.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ a b c d e Melena Ryzik (ngày 9 tháng 11 năm 2012). “Shooting the Sass Easily as an Arrow”. The New York Times.
- ^ a b c d Mike Ryan (ngày 28 tháng 11 năm 2012). “David O. Russell, Silver Linings Playbook Director, On Reinventing Bradley Cooper And Robert De Niro”. The Huffington Post.
- ^ a b c d e Chris Willman (ngày 30 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings David O. Russell on how Jennifer Lawrence skyped her way to Oscar front-runner”. Chicago Tribune. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
- ^ Carchidi, Sam (ngày 15 tháng 11 năm 2011). 15 tháng 11 năm 2012/sports/35113060_1_desean-jackson-eagles-host-eagles-coach “Eagles star in Silver Linings Playbook” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). Philly.com. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2011. - ^ a b c “Angelina Jolie Wanted Jennifer Lawrence's Silver Linings Playbook Role”. StarPulse.com. ngày 6 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
- ^ a b “Bradley Cooper Replaces Mark Wahlberg in the Silver Linings Playbook; Robert De Niro in Talks”. Collider.com. ngày 1 tháng 8 năm 2011.
- ^ Glenn Whipp (ngày 1 tháng 12 năm 2012). “Silver Linings Playbook: Bradley Cooper's good 'bad guy energy'”. Los Angeles Times. A Tribune Newspaper.
- ^ “How Jennifer Lawrence stole her Silver Linings Playbook role”. Yahoo.com. ngày 10 tháng 9 năm 2012.
- ^ Jennifer Vineyard (ngày 20 tháng 12 năm 2012). “Party Lines Slideshow: David O. Russell Tells Us Who Else Auditioned for Silver Linings Playbook”. Vulture.com.
- ^ "Silver Linings Playbook: Jennifer Lawrence Wins Her Role via Skype, Learns to Dance Like an Amateur". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b "Jennifer Lawrence in Silver Linings Playbook". NYTimes.com. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b Valby, Karen (ngày 25 tháng 1 năm 2013). “Jennifer Lawrence / Silver Linings Playbook”. Entertainment Weekly. New York: Time Inc.: 48.
- ^ “Bradley Cooper & Jennifer Lawrence's 'Amazing Chemistry' Evident During Dance Rehearsal”. People.com. ngày 9 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ Jada Yuan (ngày 12 tháng 11 năm 2012). “Jennifer Lawrence Has 30 Minutes to Schmooze Oscar Voters Before Getting Back to Hunger Games”. Vulture.com.
- ^ a b Aldrich, Ryland. “Cannes 2012: Weinsteins Show Off Django Unchained, The Master, & Silver Lining Playbook”. TwitchFilm.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- ^ a b Whipp, Glenn. “Silver Linings Playbook wins People's Choice at Toronto festival”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Silver Linings Playbook to open Mumbai Film Fest”. Asia Pacific Arts. ngày 9 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Mumbai festival opens with Silver Linings Playbook”. The Hindu. ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2012.
- ^ Subers, Ray (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Forecast: 'Twilight' Finale Eyes Record Debut for Franchise”.
The Weinstein Company was originally planning to go nationwide
- ^ Zeitchik, Steven (ngày 5 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings writes an unusual release playbook”. Los Angeles Times. A Tribune Newspaper.
- ^ Zeitchik, Steven (ngày 14 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings Playbook won't go wide on Thanksgiving after all”. Los Angeles Times. A Tribune Newspaper.
- ^ Perez, Rodrigo (ngày 20 tháng 12 năm 2012). “David O. Russell's Silver Linings Playbook Hits 700 Screens Starting Christmas Day”. Indiewire. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Silver Linings Playbook Blu-ray and DVD release”. ngày 11 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Silver Linings Playbook”. Rotten Tomatoes. Flixster. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Silver Linings Playbook”. Metacritic. CBS Interactive. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
- ^ Cooper, Jackie K. “Silver Linings Playbook”. Jackie K. Cooper. JackieCooper.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Roeper, Richard. “Silver Linings Playbook”. RichardRoeper.com.com. Bản gốc (Video) lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Weitzman, Elizabeth (ngày 16 tháng 11 năm 2012). “Movie review: Silver Linings Playbook”. New York Daily News. NYDailyNews.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Rainer, Peter (ngày 16 tháng 11 năm 2012). “Bradley Cooper and Jennifer Lawrence strike romantic sparks in Silver Linings Playbook (+video)”. Christian Science Monitor. CSMonitor.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Covert, Colin (ngày 20 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings: Crazy in love with this rom-com”. Star Tribune. StarTribune.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Moore, Roger (ngày 30 tháng 12 năm 2012). “Movie Review: The Silver Linings Playbook — cute and disturbing Oscar bait”. Movie Nation. RogersMovieNation.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ a b Corliss, Richard (ngày 11 tháng 9 năm 2012). “Silver Linings Playbook: Bradley Cooper and Jennifer Lawrence Go Dancing on the Edge”. Time.com. Time Inc. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ a b Rooney, David (ngày 9 tháng 9 năm 2012). “Silver Lining Playbook: Toronto Review”. The Hollywood Review. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ Jagernauth, Kevin (ngày 9 tháng 9 năm 2012). “TIFF Review: Big-Hearted & Hilarious Silver Linings Playbook A Touchdown From David O. Russell”. The Playlist. IndieWire.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ Chang, Justin (ngày 9 tháng 9 năm 2012). “Silver Linings Playbook”. Variety. Reed Elsevier Properties Inc. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ Kohn, Eric (ngày 9 tháng 9 năm 2012). “Toronto Review: Making Light of Romantic Dysfunction, Silver Linings Playbook Is David O. Russell's Funniest Film to Date”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ Hornaday, Ann (ngày 16 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings Playbook”. Ann Hornaday. Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Ebert, Roger. “Silver Linings Playbook”. Chicago Sun Times. Sun-Times Media Group. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Turan, Kenneth (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Movie review: Silver Linings Playbook is irresistibly eccentric”. Los Angeles Times. Tribune Company. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Rea, Steven (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “A wonderful Silver Linings Playbook to open Philadelphia Film Festival”. Steven Rea. Philly.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Baca, Ricardo (ngày 21 tháng 11 năm 2012). “Movie review: A pleasure looking for those "Silver Linings"”. The Denver Post. MediaNews Group. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Peter, Travers (ngày 15 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings Playbook”. Peter Travers. RollingStone.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
- ^ Denby, David. “Silver Linings Playbook”. The New Yorker. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
- ^ Richard Brody (ngày 21 tháng 11 năm 2012). “The Book on Silver Linings Playbook”. The New Yorker.
- ^ Robbie Collin (ngày 22 tháng 11 năm 2012). “Silver Linings Playbook, review”. The Telegraph.
- ^ Tatiana Siegel (ngày 6 tháng 12 năm 2012). “The Real Philadelphia Eagles Games Behind Silver Linings Playbook's Football Obsession”. The Hollywood Reporter.
- ^ Ray Subers (ngày 18 tháng 11 năm 2012). “Weekend Report: 'Breaking Dawn' Ends 'Twilight' Franchise on Strong Note”. Box Office Mojo. IMDB.
- ^ Ray Subers (ngày 25 tháng 11 năm 2012). “Weekend Report: 'Twilight,' Bond Dominate Fruitful Thanksgiving”.
- ^ Ray Subers (ngày 21 tháng 1 năm 2013). “Weekend Report: 'Mama' Haunts First Place Over MLK Weekend”.
- ^ Gitesh Pandya (ngày 28 tháng 1 năm 2013). “Weekend Box Office”.
- ^ Ray Subers (ngày 31 tháng 10 năm 2012). “Holiday 2012 Forecast”. Box Office Mojo.
- ^ Ray Subers (ngày 18 tháng 2 năm 2013). “Weekend Report: 'Die Hard' Narrowly Wins Presidents Day Weekend - Box Office Mojo”. Box Office Mojo.
- ^ Eisenberg, Eric (ngày 18 tháng 12 năm 2012). “The Top 10 Movies Of 2012: Eric's List”. Cinema Blend. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
- ^ Shoard, Catherine (ngày 11 tháng 12 năm 2012). “The 10 best films of 2012, No 4 – Silver Linings Playbook”. The Guardian. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Oscars - The Nominees”. The Academy Awards of Motion Pictures and the Arts. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Oscars 2013: the full list of winners”. London: The Guardian. ngày 25 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013.
- ^ Knegt, Peter (ngày 10 tháng 12 năm 2012). “American Film Institute Announces 2012 AFI Awards: 'Django,' 'Dark Knight' In; 'Flight,' 'The Master' Out”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Garry, Maddox (ngày 9 tháng 1 năm 2013). “Jackman, Kidman up for AACTA awards”. The Sydney Morning Herald. Fairfax Media. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2013.
- ^ Hanna, Beth (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Silver Linings Playbook Wins Again at Austin Film Festival; Junk, Spinning Plates & Rising from Ashes Also Recognized”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
- ^ “BAFTA Film Awards 2013: Winners list in full”. Digital Spy. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2013.
- ^ “BAFTAs 2013 the winners - the full list”. London: The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2013.
- ^ Dobbins, Amanda (ngày 11 tháng 12 năm 2012). “Critics Choice Nominations Favor Lincoln, Hathaway, Lawrence”. Vulture.com. New York Media LLC. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 11 tháng 12 năm 2012). “'The Impossible' and 'Take This Waltz' Among Unique Detroit Film Critics Nods”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ McAllister, Cameron (ngày 18 tháng 1 năm 2013). “Georgia Film Critics Association 2012 winners”. ReelGA.com. Reel Georgia. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2013.
- ^ Knegt, Peter (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “'Lincoln,' 'Django Unchained' Lead 2013 Golden Globe Nominations”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 18 tháng 10 năm 2012). “Gotham Awards Announce 2012 Nominations”. IndieWire.com. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
- ^ Costanza, Justine Ashley (ngày 8 tháng 10 năm 2012). “Silver Linings Playbook Wins Audience Award At Hamptons International Film Festival”. IBTimes.com. The International Business Times Inc. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
- ^ Whipp, Glenn (ngày 23 tháng 10 năm 2012). “Hollywood Film Awards kicks off the season... early”. Los Angeles Times. A Tribune Newspaper. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
- ^ Sawin, Chris (ngày 6 tháng 1 năm 2013). “The 6th Annual Houston Film Critics Society Awards list of winners (Photos)”. Examiner.com. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2013.[liên kết hỏng]
- ^ “Spirit Award 2013 Nominees Announced”. CineMovie.tv. A La Brava Entertainment. ngày 28 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.[liên kết hỏng]
- ^ Knegt, Peter (ngày 5 tháng 12 năm 2012). “'Zero Dark Thirty' Leads National Board of Review Winners”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “'Life of Pi' Leads Las Vegas Film Critics Winners”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
- ^ Warner, Denise (ngày 14 tháng 4 năm 2013). “2013 MTV Movie Awards winners list”. Entertainment Weekly. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2013.
- ^ Knegt, Peter (ngày 10 tháng 12 năm 2012). “'The Master' Tops San Diego Critics Nominations”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Lodge, Guy (ngày 3 tháng 12 năm 2012). “Satellite Award noms run the gamut from Silver Linings Playbook to Skyfall”. HitFix.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Outstanding Performer of the Year Award honoring Jennifer Lawrence”. SBIFF.org. ngày 27 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 12 tháng 12 năm 2012). “Silver Linings, Lincoln, Les Mis Lead SAG Award Nominations”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 11 tháng 12 năm 2012). “St. Louis Critics Announce 2012 Award Nominees”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Ellwood, Gregory (ngày 16 tháng 9 năm 2012). “Silver Linings Playbook beats Argo for Toronto Film Festival People's Choice Award”. HitFix.com. HitFix Entertainment News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
- ^ Knegt, Peter (ngày 9 tháng 12 năm 2012). “Washington Film Critics Go For 'Zero Dark Thirty,' Day-Lewis, Chastain”. IndieWire. A SnagFilms Co. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Heather Phares, Danny Elfman/ Silver Linings Playbook [Original Motion Picture Soundtrack]. Allmusic. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Official UK Top 100 Singles”. The Official Charts Company. ngày 1 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Silver Linings Playbook”. itunes. ngày 16 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2012.
- Ghi chú
- ^ Từ "silver linings" trong tên phim được lấy từ câu nói "Every cloud has a silver lining", có nghĩa là "lẫn trong đám mây luôn có một tia nắng", hàm ý như câu "trong cái rủi có cái may"[4].
- ^ "Bóng đá" ("football") tiếng Mỹ ám chỉ môn bóng đá Mỹ. Còn với môn bóng đá vốn được sử dụng ở mọi nơi khác trên thế giới, người Mỹ dùng từ "soccer".
- ^ Viết tắt của "Ridley Park Police Departement", tạm dịch "Cảnh sát vùng Ridley Park".
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Website chính thức
- Trailer phim trên YouTube
- Silver Linings Playbook trên Internet Movie Database
- Silver Linings Playbook tại AllMovie
- Silver Linings Playbook tại Rotten Tomatoes
- Silver Linings Playbook tại Metacritic
- Silver Linings Playbook tại Box Office Mojo
- 'Silver Linings Playbook’, điên dại và ngọt ngào trên Vnexpress
- Phim năm 2012
- Phim đoạt giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
- Phim đoạt giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất
- Phim lãng mạn Mỹ
- Phim hài Mỹ
- Phim chính kịch lãng mạn Mỹ
- Phim hài-chính kịch Mỹ
- Phim hài-chính kịch thập niên 2010
- Phim hài lãng mạn Mỹ
- Phim tiếng Anh
- Phim hài lãng mạn thập niên 2010
- Phim lấy bối cảnh năm 2008
- Phim chính kịch lãng mạn thập niên 2010
- Phim về gian dâm
- Phim Mỹ
- Nhạc nền phim của Danny Elfman
- Phim về gia đình bất thường
- Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ
- Phim giành giải BAFTA
- Phim có diễn xuất giành giải Oscar cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất
- Phim có diễn xuất giành giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất
- Phim lấy bối cảnh ở Philadelphia
- Phim có biên kịch giành giải BAFTA cho kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất
- Phim của Công ty Weinstein