Bước tới nội dung

Oxymonacanthus halli

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Oxymonacanthus halli
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Tetraodontiformes
Họ: Monacanthidae
Chi: Oxymonacanthus
Loài:
O. halli
Danh pháp hai phần
Oxymonacanthus halli
Marshall, 1952

Oxymonacanthus halli là một loài cá biển thuộc chi Oxymonacanthus trong họ Cá bò giấy. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1952.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh halli được đặt theo tên của Thiếu tá Harold Wesley Hall (1888–1964), chủ sở hữu của du thuyền động cơ Manihine. Tác giả Marshall đã thực hiện chuyến thám hiểm đến vịnh Aqaba trên con tàu này và thu thập được mẫu định danh của cá.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

O. halli có phân bố giới hạn trong Biển Đỏ, sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến khoảng 11 m.[1]

Loài bị đe dọa

[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng như loài chị em của nó, cá bò xanh hoa đỏ (O. longirostris), O. halli đang chịu tác động từ việc mất môi trường sống do hiện tượng tẩy trắng san hô, cộng với việc loài sao biển gai chuyên ăn san hô hoạt động mạnh mẽ tại vùng biển này. Do đó, loài này được xếp vào nhóm Loài sắp nguy cấp theo IUCN.[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở O. halli là 7 cm.[3] Đầu và thân màu xanh lục lam, có hơn 10 hàng đốm cam trên toàn bộ cơ thể, đôi khi có viền đen ở các đốm. Miệng bao quanh bởi màu cam. Sọc đen dài và dày trên vây đuôi. Bụng cá đực có vệt cam lớn viền đen.[4]

Số gai vây lưng: 2; Số tia vây lưng: 29–33; Số gai vây hậu môn: 0; Số tia vây hậu môn: 27–31; Số tia vây ngực: 10–11.[4]

So với O. longirostris, O. longirostris có mõm dài hơn với dạng hình ống; đốm cam lớn và thưa nhau hơn nhưng không bao phủ phần mõm; có vệt đen lốm đốm trắng dưới bụng.[4]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

O. halli chỉ ăn polyp san hô các loài Acropora.[3] Loài này có thể dựa vào hình dạng và hoa văn cơ thể để ngụy trang trên các nhánh san hô Acropora.[5]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

O. halli có lẽ có giá trị đối với ngành thương mại cá cảnh như loài O. longirostris.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d Matsuura, K.; Motomura, H. & Khan, M. (2019). Oxymonacanthus halli. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2019: e.T79802677A79802692. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-1.RLTS.T79802677A79802692.en. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Tetraodontiformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Oxymonacanthus halli trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ a b c J. Barry Hutchins (2022). “Monacanthidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (tập 5) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 436.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  5. ^ Brooker, R. M.; Munday, P. L.; Jones, G. P. (2011). “Coral obligate filefish masquerades as branching coral”. Coral Reefs. 30 (3): 803–803. doi:10.1007/s00338-011-0779-6. ISSN 1432-0975.