Mirolabrichthys evansi
Mirolabrichthys evansi | |
---|---|
![]() | |
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Perciformes |
Họ (familia) | Serranidae |
Phân họ (subfamilia) | Anthiadinae |
Chi (genus) | Mirolabrichthys |
Loài (species) | M. evansi |
Danh pháp hai phần | |
Mirolabrichthys evansi (Smith, 1954) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Mirolabrichthys evansi là một loài cá biển thuộc chi Mirolabrichthys trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1954.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Từ định danh evansi được đặt theo tên của Frank V. Evans, một người Nam Phi đã hỗ trợ đắc lực trong công việc của tác giả J. L. B. Smith.[2]
Phân loại học
[sửa | sửa mã nguồn]M. evansi trước đây được xếp vào chi Pseudanthias, nhưng theo kết quả phân tích dữ liệu hình thái và phân tử mới đây vào đầu năm 2022 thì loài này được chuyển lại sang chi ban đầu là Mirolabrichthys.[3][4]
Phạm vi phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]M. evansi được phân bố dọc theo bờ biển Đông Phi đến Nam Phi, bao gồm các đảo quốc xa bờ, băng qua quần đảo Chagos và Maldives ở phía đông đến biển Andaman, xa hơn ở phía đông nam đến bờ tây đảo Sumatra (Indonesia) cùng quần đảo Cocos (Keeling) và đảo Giáng Sinh (Úc).[1]
M. evansi sống trên các rạn san hô ở độ sâu trong khoảng 4–40 m.[5]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. evansi là 12 cm.[5]
Phần lớn thân của cá đực và cá cái có màu tím hồng, phủ đầy những chấm vàng (hầu như không có ở cá cái). Phần thân trên từ gáy lan rộng xuống vây lưng và vây đuôi màu vàng tươi. Vây hậu môn màu trắng và vây bụng màu tím. Có sọc vàng từ phía trước hàm băng qua mắt xuống gốc vây ngực.[6][7]
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 47–50.[6]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Smith-Vaniz, W. F.; Carpenter, K. E.; Borsa, P.; Jiddawi, N.; Obota, C. & Yahya, S. (2018). “Pseudanthias evansi”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T117016784A117017184. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T117016784A117017184.en. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
- ^ Gill, Anthony C. (2022). “Revised definitions of the anthiadine fish genera Mirolabrichthys Herre and Nemanthias Smith, with description of a new genus (Teleostei: Serranidae)”. Zootaxa. 5092 (1): 41–66. doi:10.11646/zootaxa.5092.1.2. ISSN 1175-5334. PMID 35391222.
- ^ Gay, Jeremy (20 tháng 1 năm 2022). “Pyronotanthias, Nemanthias and Mirolabrichthys help to Sort Out the 'Classic' Anthias Species”. Reef Builders. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.
- ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Pseudanthias evansi trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2024.
- ^ a b Heemstra, Phillip C.; Akhilesh, K. V. (2012). “A review of the anthiine fish genus Pseudanthias (Perciformes: Serranidae) of the western Indian Ocean, with description of a new species and a key to the species” (PDF). aqua, International Journal of Ichthyology. 18 (3): 121–164.
- ^ Joe Shields (biên tập). “Pseudanthias huchtii Serranidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2022.