MNL48
MNL48 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Thông tin nghệ sĩ | |||||||
Nguyên quán | Manila, Philippines | ||||||
Thể loại | |||||||
Năm hoạt động | 2018–nay | ||||||
Công ty quản lý | Hallohallo Entertainment Inc. | ||||||
Hãng đĩa |
| ||||||
Hợp tác với | |||||||
Thành viên | Danh sách thành viên | ||||||
Cựu thành viên | Danh sách cựu thành viên | ||||||
Website | mnl48 | ||||||
Thông tin YouTube | |||||||
Kênh | |||||||
Năm hoạt động | 2016-nay | ||||||
Thể loại | Âm nhạc | ||||||
Lượt đăng ký | 258.000 (tính đến 19/10/2022) | ||||||
| |||||||
MNL48 (đọc là M.N.L.Forty-eight) là nhóm nhạc nữ thần tượng Philippines đầu tiên và là nhóm nhạc chị em quốc tế thứ 3 của AKB48, sau JKT48 của Indonesia và BNK48 của Thái Lan. Nhóm được đặt theo tên thủ đô Manila của Philippines. MNL48 là nhóm nhạc chị em duy nhất ra mắt với 48 thành viên. MNL48 cũng là nhóm nhạc thần tượng đầu tiên của Philippines. Màu xanh biển là màu đại diện cho nhóm.
Nhóm hoạt động theo mô hình Idol you can meet (thần tượng bạn có thể gặp mặt). Khái niệm này bao gồm các buổi concert tại các sự kiện trước công chúng và sự kiện bắt tay (Handshake Event), nơi người hâm mộ có thể gặp các thành viên trong nhóm, giống các nhóm nhạc chị em khác của AKB48.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]2016–2018: Ra đời
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 26 tháng 3 năm 2016, Vernalossom (công ty quản lý của AKB48) công bố thành lập 3 nhóm chị em MNL48, BNK48 và TPE48.[2]
Vào ngày 13 tháng 10 năm 2017, HHE đã công bố ngày đăng ký và lịch trình cho buổi thử giọng cho thế hệ đầu tiên. Vào ngày 10 tháng 11, HHE đã tổ chức buổi thử giọng đầu tiên cho MNL48.[3]
Vào đầu năm 2018, một phân đoạn đã được Anne Curtis, Billy Crawford và Karylle tổ chức trên It's Showtime, xác định các thành viên thuộc thế hệ đầu tiên. Các buổi thử giọng tiến hành trên toàn quốc cho ứng viên từ 15–20 tuổi.
Hàng nghìn ứng viên đã tham gia buổi thử giọng, nhưng chỉ 200 người tiến đến vòng thử thách kéo dài 13 tuần để ban tổ chức kiểm tra khả năng ca hát và vũ đạo. Từ Top 200 được giảm xuống Top 75 cho việc bỏ phiếu công khai. Từ Top 75, sẽ chỉ có 48 ứng viên trở thành thành viên chính thức. Từ Top 48, sẽ có một hệ thống xếp hạng theo concept Senbatsu Sousenkyo của AKB48. Top 33-48 sẽ là Next Girls, Top 17-32 sẽ là Under Girls & Top 16 sẽ là thành viên Senbatsu. Từ Top 16, 7 ứng viên sẽ chắc suất Kami 7- nơi họ sẽ trở thành đại diện tham gia các buổi concert với AKB48 cùng các nhóm chị em trên toàn thế giới. Và từ nhóm Kami 7, người chiến thắng (với tư cách là Center Girl) của cuộc tổng tuyển cử sẽ là gương mặt đại diện cho MNL48 trên toàn thế giới.
2018: Thế hệ đầu tiên, Aitakatta – Gustong Makita và Pag-ibig Fortune Cookie
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 22 tháng 4, sự kiện Meet Your Oshimen đã thu hút 300 người hâm mộ may mắn gặp gỡ và chào đón nhóm. Sự kiện bắt tay được tổ chức tại TriNoma lúc 17:00 tại 4th Floor Garden. Sáu ngày sau sự kiện, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra tại Studio 4 và Center Road thuộc đài ABS-CBN. Trước cuộc tổng tuyển cử vào ngày 28 tháng 4, Kris cùng với 2 ứng cử viên khác là Aria và Eunice, đã tuyên bố rời nhóm và sẽ từ bỏ tư cách ứng viên cho cuộc tổng tuyển cử tới. Vài ngày sau, 8 thực tập sinh Reiko, Reina, Nix, Ann, Celine, Arol, Kana và Ikee cũng rời nhóm. Thực tập sinh mới Cole được tuyển vào làm thành viên thay thế.[4][5]
Vào ngày 3 tháng 6, sự kiện fan-meeting của MNL48 được tổ chức tại Eton Centris Elements. Nhóm biểu diễn phiên bản tiếng Tagalog của Aitakatta, Heavy Rotation, Skirt Hirari và Sakura no Hanabiratachi. Vào ngày 8 tháng 6, các thành viên Trixie, Zen, Van và Mae tuyên bố rời nhóm, đổi lại các Thực tập sinh (kenkyuusei) Rans, Nina và Andi được thăng chức làm thành viên Team MII. Thực tập sinh Coleen sau đó được thăng chức lên Team NIV. Về thứ hạng, Ella và Ash được vào Kami 7, trong khi Alyssa và Erica tham gia Senbatsu. Vào ngày 9 tháng 7, Nina và Vern thông báo rời MNL48, Cassey thế chỗ Nina trong Team MII.
Vào ngày 17 tháng 8, nhóm ra MV cho đĩa đơn đầu tay Aittakata - Gustong Makita. Trong khi Đĩa mở rộng đầu tay Aitakatta được phát hành vào ngày 14 tháng 9, đĩa đơn được phát hành vào ngày 28 tháng 9[6]. Vào ngày 26 tháng 10, MNL48 đã ra MV thứ hai Talulot ng Sakura. Vào ngày 7 tháng 11, thực tập sinh Sheccaniah Faith Baler đã lên kế hoạch rời nhóm. Vào ngày 25 tháng 11, nhóm ra MV cho đĩa đơn thứ hai Pag-ibig Fortune Cookie[7], cùng ngày họ biểu diễn trong một Sự kiện bắt tay khác được tổ chức tại Movie Stars Cafe. Vào ngày 12 tháng 12, thực tập sinh Edralyn Tocop rời nhóm, khiến số lượng thực tập sinh còn 9 người.
Vào ngày 11 tháng 12, AKS thông báo nhóm sẽ tham gia sự kiện AKB48 Group Asia Festival 2019 vào ngày 27 tháng 1 năm 2019 tại Impact Arena, Muang Thong Thani, Bangkok, Thái Lan sau cuộc Tổng tuyển cử Senbatsu lần thứ 6 của BNK48. MNL48 sẽ biểu diễn cùng các nhóm chị em AKB48, JKT48, BNK48 (chủ nhà), AKB48 Team SH, AKB48 Team TP và SGO48.
Vào ngày 14 tháng 12, MNL48 có buổi mini-show đầu tiên tại Movie Stars Cafe, Centris Station, Quezon Ave vào ngày 23 tháng 12. Cùng ngày, MNL48 ra mắt MV bài hát Amazing Grace với sự góp mặt của Sheki, Belle, Brei, Rans, Faith và Aly, đĩa đơn phát hành kỹ thuật số vào ngày 24 tháng 12[8]
2019: Thế hệ thứ 2, 365 Araw ng Eroplanong Papel, Ikaw ang Melody, High Tension & Kapamilya Management
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 26 tháng 1, nhóm tham gia sự kiện AKB48 Group Asia Festival 2019 vào ngày 27 tháng 1 năm 2019 tại Impact Arena, Muang Thong Thani, Bangkok, Thái Lan sau cuộc Tổng tuyển cử cho single thứ 6 của BNK48. MNL48 biểu diễn cùng các nhóm chị em AKB48, JKT48, BNK48 (chủ nhà), AKB48 Team SH, AKB48 Team TP và SGO48. Các thành viên Abby, Brei, Coleen, Faith, Gabb, Jem, Mari, Rans, Sela và Sheki dự sự kiện.[9][10][11]
Vào ngày 10/2, nhóm ra mắt MV cho ca khúc Palusot Ko'y Maybe từ đĩa đơn Pag-ibig Fortune Cookie, là phiên bản tiếng Tagalog cho Iiwake Maybe của AKB48, được thực hiện bởi Team NIV và Coleen được chọn làm Center.[12]
Ngày 22/2, MNL48 tiến hành casting thế hệ thứ 2 cho cuộc Tổng tuyển cử sắp tới. Vào ngày 1 tháng 3, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 3, 365 Araw ng Eroplanong Papel[13]. Vào ngày 25 tháng 3, thành viên từ Thế hệ thứ 2 đã được tuyển chọn. Vào ngày 6 tháng 4, nhóm tổ chức buổi concert tại Nhà hát New Frontier (trước đây là Kia Theater) gần Araneta Coliseum[14]
Tổng tuyển cử lần thứ 2
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 27 tháng 4, nhóm kỷ niệm 1 năm hoạt động cùng cuộc Tổng tuyển cử lần thứ 2, nơi cả 77 thành viên của 2 thế hệ cạnh tranh cho 48 vị trí. Trong sự kiện trên, những thành viên không lọt vào Top 48 sẽ ngay lập tức bị loại khỏi nhóm. 16 thành viên Thế hệ thứ nhất (bao gồm Cassandra Mae Pestillos, Ella Mae Amat, Eunys Abad, Guinevere Muse, Hazel Joy Marzonia, Jessel Montaos, Khyan Jewel Cacapit, Madelaine Epilogo, Necca Adelan, Princess Erica Sanico, Princess Rius Briquillo, Sharei Engbino, Edelvira Bandong, Jamela Magbanlac, Polaris Yna Salazar, Ruth Carla Dela Paz) và 13 thành viên Thế hệ thứ hai (bao gồm Abbigail Shaine Reyes, Alexie Iris Dimaayo, Alyssandra Corteza, Anne Nicole Casitas, Christina Samantha Tagana, Chrisylle Joy Mondejar, Francese Therese Pinlac, Missy Ainza, Naomi Roniele De Guzman, Je-ann Benette Guinto, Karla Jane Tolentino, Shay Anne Enciso, Trisha Labrador) đã bị loại cùng với 12 thực tập sinh còn lại (5 từ thế hệ thứ nhất & 7 từ thế hệ thứ hai) để thay thế 12 thành viên thuộc thế hệ đầu đã thăng hạng có thứ hạng cao hơn trong sự kiện nói trên.
Jhona Alyannah Padillo của Team NIV được chọn là người kế nhiệm Shekinah Arzaga với tư cách là Center Girl của nhóm. Vào ngày 1 tháng 5, MNL48 tổ chức sự kiện tốt nghiệp hàng năm cho 29 thành viên được xếp hạng cao hơn trong cuộc Tổng tuyển cử lần thứ hai (bao gồm 12 thành viên thế hệ đầu tiên, 4 thực tập sinh thế hệ đầu tiên và 13 thực tập sinh thế hệ thứ hai) tại Movie Stars Cafe ở Quezon
Để đủ 12 vị trí còn trống từ Top 48, 6 thực tập sinh được thăng cấp lên Team MII, 3 người lên Team NIV và 3 người lên Team L. Cole, Yzabel, Emz, Jamie, Klaire & Laney được thăng chức lên Team MII, Dani, Rowee và Miho được thăng lên Team NIV và Amy, Yssa & Ice được thăng lên Team L.
Quincy Josiah Santillan từ chức với tư cách là thành viên của Team L vào ngày 23 tháng 5 và được thay thế bởi Ella Mae Amat, thành viên của Thế hệ đầu và Sayaka Awane của Team MII tuyên bố tốt nghiệp vào ngày 3 tháng 6 và thay thế bởi Princess Rius Briquillo, một thành viên của Thế hệ đầu trở lại nhóm.[15]
Ikaw Ang Melody
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 29 tháng 7, nhóm ra mắt bài hát Ikaw ang Melody -phiên bản nội địa cho bài Kimi Wa Melody của AKB48[16]
Vào ngày 24 tháng 8, nhóm biểu diễn tại sự kiện AKB48 Group Asia Festival 2019 in Shanghai tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ở Thượng Hải, Trung Quốc cùng chủ nhà AKB48 Team SH và các nhóm chị em thuộc AKB48. Rans, Sheki, Abby, Brei, Belle, Coleen, Kay, Sela là 8 thành viên nhóm dự sự kiện[17]
Ashley Cloud Garcia (Ash) từ Team L tuyên bố tốt nghiệp vào ngày 4 tháng 9 và được thay thế bởi thực tập sinh Frances Therese Pinlac (Frances).[18]
Nhóm ký hợp đồng độc quyền với đài ABS-CBN vào ngày 4 tháng 10 năm 2019 cùng nhóm nhạc nữ Momoland.[19]
High Tension
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 19 tháng 10, MNL48 thông báo đĩa đơn thứ 5 sẽ là High Tension và Gabb (Gabrielle Ruedas Skribikin) của Team L sẽ là center.[20]
Vào ngày 5 tháng 11, Princess Labay (Cess) từ Team MII rời nhóm do vi phạm nội quy, sau đó được thay thế bởi Guinevere Muse (Gia)[21][22].
Vào ngày 31 tháng 12, Abelaine Saunar Trinidad (Abby) tham gia AKB48 World Senbatsu cùng với các nhóm chị em khác ở nước ngoài và biểu diễn Koisuru Fortune Cookie. Cô là người Philippines thứ 3 biểu diễn trong chương trình Kouhaku Uta Gassen lần thứ 70 của đài NHK sau nhóm nhạc Smokey Mountain và ca sĩ Gary Valenciano.[23][24]
2020: Thế hệ thứ 3, High Tension và River
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 24/1, nhóm quyết định chấm dứt hợp tác với Daniella Mae Palmero (Dani) từ Team NIV do vi phạm nội quy của nhóm [25] và được thay thế bởi thực tập sinh Karla Dela Paz.[26]
Vào ngày 25 tháng 1, MNL48 công bố lịch trình buổi thử giọng cho thế hệ thứ ba của nhóm để xác định ai sẽ thăng cấp vào Nhóm đào tạo và phát triển (Training and Development Team) với tư cách là ứng viên cho thế hệ thứ 3. Thể thức của Tổng tuyển cử lần thứ 3 sẽ được áp dụng giống như các cuộc Tổng tuyển cử của AKB48 và hệ thống Thăng-giáng chức của JKT48. Đối với những thành viên lọt vào Top 48, họ sẽ được thăng cấp lên Team MII, NIV & L, trong khi số còn lại sẽ bị giáng xuống Nhóm Đào tạo và Phát triển. Khác với Tổng tuyển cử lần thứ 2, việc buộc phải rời nhóm (tốt nghiệp) sẽ không áp dụng.
Vào ngày 26 tháng 1, Faith (Faith Shanrae Santiago) của Team MII có buổi biểu diễn tốt nghiệp tại Movie Stars Cafe, sau đó được thay thế bởi thực tập sinh Christina Samantha Tagana (Sam)[27][28]
Vào ngày 19 tháng 2, MV chính thức của High Tension được công chiếu trên kênh YouTube của nhóm.[29] Nhóm công bố 17 thành viên thế hệ thứ 3 vào ngày 15/3[30]
Để đồng hành cùng cuộc chiến chống COVID-19, 3 thành viên Abby, Coleen, Sheki cùng các nhóm nhạc chị em thuộc AKB48 Group và các nghệ sĩ nổi tiếng châu Á khác tham gia chương trình One Love Asia, do YouTube và WebTVAsia tổ chức, được UNICEF hỗ trợ vào ngày 27 tháng 5[31][32]
River
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 16 tháng 2, nhóm đã tổ chức Valentine Mini Concert tại Movie Stars Cafe. Tại buổi Concert, nhóm thông báo đĩa đơn thứ 6 sẽ là River. Gabb và Abby sẽ là WCenter (Center kép) đầu tiên trong 1 đĩa đơn của MNL48.[33]
Vào ngày 10 tháng 6, tại buổi livestream MNL48 Kumu, nhóm trưởng Alice thông báo sẽ tham gia vào đội hình Senbatsu cho bài River thay thế cho Rans.[34][35]
Vào ngày 11 tháng 11, MNL48 phát hành teaser cho đĩa đơn River. Do thảm họa bão liên tục đổ bộ vào Philippines, HHE thông báo MV sẽ bị hoãn ngày ra mắt. Vào ngày 27 tháng 11, MNL48 công chiếu MV chính thức River[36]. Các bài hát Sampung Taon ng Sakura và Labrador Retriever phát hành trên iTunes, Apple Music sau đó.[37]
Tổng tuyển cử lần thứ 3
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 12 tháng 3, Team NIV của MNL48 đã biểu diễn bài hát 1! 2! 3! 4! Yoroshiku tại chương trình It's Showtime trong điều kiện không có khán giả, và họ đã thông báo Tổng tuyển cử lần thứ 3 sẽ được phát sóng tại chương trình trên vào ngày 25 tháng 4. Do đại dịch COVID-19 ở Philippines, việc bỏ phiếu đã được kéo dài đến 31 tháng 10. Vào 15 tháng 3, các ứng viên đã được công bố, bao gồm 62 ứng viên (44 từ thế hệ thứ nhất và thứ hai, 2 thực tập sinh và 16 từ thế hệ thứ ba). Các ứng viên hợp lệ Rans, Yssa, Lei và Rowee sẽ không tham gia vì lý do cá nhân. Vào ngày 24 tháng 3, Querubin Gonzalez rút lại ứng cử cho 48 thành viên chính thức. Hai ngày sau, Jelay Pilones, tham gia ứng cử. Vào ngày 18 tháng 5, trong quá trình bỏ phiếu, Valerie Joyce Daita của Team NIV sẽ không tham gia vì lý do cá nhân. 11 ngày sau, Yiesha Amera Ungad cũng từ chức ứng cử viên. Vào ngày 22 tháng 6, Daryll Matalino đã rút lui để hoàn thành dự án MNL48 Presents: Chain, sau thông báo tốt nghiệp của cô. Vào ngày 4 tháng 8, 2 thực tập sinh còn lại của Thế hệ thứ 2- Anne Nicole Casitas và Trisha Labrador được thăng cấp là thành viên chính thức thuộc Team NIV. Vào ngày 30 tháng 9, Đội trưởng Ecka Sibug của Team NIV tuyên bố rút lui và rời nhóm. Cùng ngày, MNL48 đăng trên Facebook cho hay HHE đã quyết định đối với cuộc Tổng tuyển cử lần thứ ba, nhóm sẽ gồm 36 thành viên, để tập trung nhiều hơn vào các dự án cá nhân và các công ty con của HHE trong thời gian tới.
Vào ngày 28 tháng 10, ba ngày trước hạn chót, HHE thông báo Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ ba sẽ được công bố sớm. Mặt khác, thời gian bình chọn sẽ được kéo dài đến 30 tháng 11. Vào ngày 28 tháng 11, Belle delos Reyes của Team NIV đã rút lại ứng cử để hoàn thành MV River, số ứng viên chính thức của cuộc Tổng tuyển cử còn 56.
Vào ngày 29 tháng 11, kết quả sơ bộ đầu tiên đã được công bố vào lúc 6 giờ chiều (PST) ngày 28 tháng 11. Thành viên Sheki thuộc Thế hệ thứ nhất dẫn đầu cho vị trí Center, tiếp theo là Andi, Ruth, Coleen, Ella, Jem và Jamie cho Kami 7. Kết quả sơ bộ lần đầu tiên cho Top 36 bao gồm 11 thành viên từ Team MII, 10 từ Team NIV, 10 từ Team L và 5 từ Thế hệ thứ ba. Vài giờ sau khi có kết quả sơ bộ, thành viên Sela Guia chính thức hủy bỏ việc tốt nghiệp. Vào ngày 30 tháng 11, vài giờ trước khi kết thúc bỏ phiếu, kết quả sơ bộ thứ hai được công bố kể từ ngày 29 tháng 11 lúc 22:30 (PST). Abby vượt qua Sheki để giành vị trí Center. Tiếp theo là Andi, Ruth, Jem, Coleen và Ella hiện đang ở Kami 7. Kết quả sơ bộ lần 2 cho Top 36 bao gồm 22 thành viên chia đều cho Team MII và Team NIV, 10 từ Team L và 4 từ Thế hệ thứ ba.
Nhóm nhỏ (sub-unit) BABY BLUE
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 1 tháng 9, MNL48 thông báo về việc thành lập BABY BLUE, nhóm nhỏ đầu tiên của MNL48 hợp tác với Tower Records Japan. Nhóm ra đời với 3 thành viên Cristine Jan Roque Elaurza (Jan), Coleen Apura Trinidad (Coleen) và Amanda Manabat Isidto (Amy)[38]. Sau đó, BABY BLUE phát hành đĩa đơn đầu tay Sweet Talking Sugar và phát hành thông qua EGGS, một dịch vụ nhạc số của Nhật Bản. MV chính thức, do Carlo Manatad của Plan C sản xuất cũng ra mắt, được phát hành trên GYAO!- trang web thuộc Yahoo Japan vào ngày 16 tháng 9[39][40]
Ca khúc thứ 2, NEGASTAR được phát hành sau khi nhóm tải lên một đoạn teaser 60 giây lên EGGS vào ngày 16 tháng 11. MV chính thức sau đó ra mắt vào 25 tháng 11 và có trên iTunes và Spotify.[41]
Phát hành bài hát gốc đầu tiên HASHLOVE
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 23 tháng 12, MNL48 ra mắt bài hát gốc đầu tiên HASHLOVE, một bài hát pop/ R & B chào lễ Giáng sinh do Shekinah Arzaga, Frances Pinlac, Cole Somera, Jamie Alberto, Yzabel Divinagracia, Ruth Lingat và Brei Binuya thể hiện. HASHLOVE được sáng tác bởi nhà sản xuất âm nhạc người Philippines Jungee Marcelo.[42][43]
2021: Kết quả tổng tuyển cử thứ 3 và đội trưởng mới
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 1 tháng 2, MNL48 thông báo lịch trình công bố kết quả Tổng tuyển cử lần thứ ba. Ngày 6 tháng 2 sẽ công bố Top 48 trên It's Showtime, ngày 13 tháng 2 công bố các thành viên Next Girls- hạng từ 48 đến 33 và Undergirls- hạng từ 32 đến 17, cả hai sẽ được công bố trên Ittime Online U. Cuối cùng, các thành viên Senbatsu hạng từ 16 đến 1, sẽ được công bố vào ngày 20 tháng 2.[44][45] Cuộc Tổng tuyển cử lần thứ 3 kết thúc với Abby Trinidad được xướng tên là center mới của Tổng tuyển cử lần thứ ba, được công bố trực tiếp trên chương trình It's Showtime vào ngày 20 tháng 2.[46] Đội hình Senbatsu được hoàn thành theo thứ tự thứ hạng sau: Sheki Arzaga, Jamie Alberto, Ruth Lingat, Ella Amat, Jan Elaurza, Andi Garcia, Jem Caldejon, Yzabel Divinagracia, Gabb Skribikin, Alice De Leon, Princess Briquillo, Lara Layar, Coleen Trinidad, Thea Itona và Tin Coloso.[47]
Vào ngày 6 tháng 2, 2 thành viên Aly Padillo và Ice Bozon thông báo sẽ tốt nghiệp MNL48[48] Vào ngày 25 tháng 2, 2 thành viên Laney Sañosa và Karla dela Paz thông báo sẽ tốt nghiệp MNL48[49]
Ngày 17 tháng 3, nhóm thông báo thành viên Sheki là nhóm trưởng mới của MNL48 thay cho Alice[50].
Vào ngày 12 tháng 4, MNL48 cho biết 16 thành viên Abby, Sheki, Jamie, Ruth, Ella, Jan, Yzabel, Gabb, Coleen, Lara, Brei, Cole, Frances, Gia, Amy và Jaydee sẽ tham dự AKB48 Group Asia Festival 2021 Online tổ chức trực tuyến vì đại dịch COVID-19 và trình chiếu ở Tokyo Dome City Hall ở Tokyo, Nhật Bản[51]. Vào ngày 21 tháng 4, Baby Blue phát hành đĩa đơn thứ 3 Stuck on You.[52]
Vào ngày 28 tháng 4, nhóm kỷ niệm 3 năm thành lập mà không có bất kỳ buổi biểu diễn đặc biệt nào do đại dịch COVID-19. Nhóm nhỏ Baby Blue sẽ phát hành đĩa đơn thứ 4 HEAD UP vào ngày 26/1/2022.[53] Vào ngày 18/12, trong sự kiện bắt tay , nhóm cho biết sẽ ra mắt single thứ 7 NO WAY MAN vào năm 2022.[54]
2022: No Way Man
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 16 tháng 1, Đội Padayon của MNL48 bao gồm Jem, Kath, Klaire, Miho và Yzabel đã giành chiến thắng trong Pokémon Unite AKB48 Group Invitational 2021 sau khi đánh bại Yummy Remote của BNK48 với tỷ số 3-1 tại loạt trận đấu Bo5. Bằng cách này, họ đã trở thành nhóm nhạc thần tượng Philippines đầu tiên giành chiến thắng trong một cuộc thi thể thao điện tử quốc tế[55].
Vào ngày 1 tháng 4, MNL48 đã phát hành một đoạn teaser và sau đó là video âm nhạc của đĩa đơn thứ 7 No Way Man, 1 năm sau cuộc Tổng tuyển cử lần thứ 3[56].
Vào ngày 9 đến ngày 10 tháng 4, nhóm đã lần đầu tiên tham dự P-Pop Con 2022 cùng với các nhóm nhạc P-pop khác như Bini, BGYO, 4th Impact, SB19 và các nhóm sắp ra mắt khác tại New Frontier Theater và Araneta Coliseum.[57][58]
Vào ngày 22 tháng 5, Amy và Coleen đã cùng với AKB48 và các nhóm Nhật Bản khác tham gia sự kiện từ thiện do võ sĩ người Philippines Manny Pacquiao tổ chức tại Sân vận động Bóng đá Thành phố ở Tochigi, Nhật Bản.[59]
Vào ngày 15 tháng 7, nhóm tham dự Tugatog: Filipino Music Festival để giới thiệu sự hợp tác với các nhóm nhạc P-pop khác tại Mall of Asia Arena.[60]
Vào ngày 3 tháng 8, nhóm thông báo về chuyến lưu diễn Breakthrough: MNL48 No Way Man Nationwide Tour 2022 hợp tác với Robinsons Malls[61].
Vào ngày 29 tháng 10, nhóm đã đến Jakarta, Indonesia để hợp tác với nhóm chị em JKT48 tại Tiktok For You Stage cùng với Psy và các nghệ sĩ Indonesia khác[62].
Thành viên
[sửa | sửa mã nguồn]Tính đến tháng 11 năm 2021, nhóm có 31 thành viên cùng 2 thực tập sinh. Trưởng nhóm hiện tại là Sheki.
Nhóm nhỏ
[sửa | sửa mã nguồn]Các nhóm nhỏ cho đĩa đơn
[sửa | sửa mã nguồn]- Senbatsu (選抜)
- Undergirls (アンダーガールズ)
- Sulong Senbatsu
Nhóm nhỏ
[sửa | sửa mã nguồn]- Baby Blue
- MNL48 Gospel Unit
- TGC Senbatsu (TGC選抜)
Khác
[sửa | sửa mã nguồn]- Game Senbatsu (ゲーム選抜)
- Janken Senbatsu
- Pokémon Senbatsu
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Đĩa đơn
[sửa | sửa mã nguồn]MNL48
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Chi tiết |
Aitakatta |
|
---|---|
Pag-Ibig Fortune Cookie |
|
365 Araw ng Eroplanong Papel |
|
Ikaw ang Melody |
|
High Tension |
|
River |
|
NO WAY MAN |
|
Đĩa đơn kỹ thuật số
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Chi tiết |
Amazing Grace |
|
---|---|
HASHLOVE |
|
Nhóm nhỏ
[sửa | sửa mã nguồn]Baby Blue
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Chi tiết |
Sweet Talking Sugar |
|
---|---|
Negastar |
|
Stuck on You |
|
HEAD UP |
|
Nghệ sĩ hợp tác
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tên | Album |
2018 | Dalawang Pag-ibig Niya (với Krystal Brimner và Sheena Belarmino) | Himig Handog 2018 |
---|
Video âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]MNL48
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tên | Chú thích | Ghi chú |
2018 | Aitakatta – Gustong Makita | Đĩa đơn đầu tiên | [63] |
Talulot ng Sakura | B-side | [64] | |
Pag-ibig Fortune Cookie | Đĩa đơn thứ 2 | [65] | |
Amazing Grace (My Chains Are Gone) | Gospel project | [66] | |
2019 | Palusot Ko'y Maybe | Team NIV | [67] |
365 Araw ng Eroplanong Papel | Đĩa đơn thứ 3 | [68] | |
Igai ni Mango | Team L | [69] | |
Ikaw Ang Melody | Đĩa đơn thứ 4 | [70] | |
Gingham Check | Undergirls | [71] | |
2020 | High Tension | Đĩa đơn thứ 5 | [72] |
River | Đĩa đơn thứ 6 | [73] | |
Hashlove | [74] | ||
2021 | 10nen Zakura – Sampung Taon ng Sakura | B-side | |
2022 | NO WAY MAN | Đĩa đơn thứ 7 |
Danh sách phim & chương trình truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Phim
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tên | Thành viên | Chú thích | Ghi chú |
2019 | ICYMI: I See Me | Các thành viên thuộc thế hệ đầu tiên | Phim tài liệu đầu tiên | [75] |
2020 | Seikimatsu Blue | Abby, Kay, Coleen, and Brei | Phim đầu tiên quay tại Nhật Bản | [76] |
Kun Maupay Man It Panahon (Whether the Weather is Fine) | Rans | [77] | ||
MNL48 Present: 2020 Vision | ||||
MNL48 Present: Chain | Jamie, Daryll | [78] | ||
MNL48 Present: By, Us | Dana, Jem |
Chương trình truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tên | Kênh | Vai trò | Ghi chú |
2018–nay | It's Showtime | ABS-CBN, Kapamilya Channel | Bản thân | |
Letters and Music | Net 25 | Khách mời | ||
ASAP Natin 'To | ABS-CBN, Kapamilya Channel | |||
iWant ASAP | ||||
Umagang Kay Ganda | ABS-CBN | |||
2019 | Showbiz FM with MJ Marfori | One PHRadyo5 | ||
Warrior ANGEL with Brenda Domato | Inquirer 990 TelevisionRadyo Inquirer | |||
Banana Sundae | ABS-CBN | |||
MYXed Lives | Myx | |||
Matanglawin | ABS-CBN | |||
Hado Pilipinas | ABS-CBN S+A | |||
NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 70 (第70 回NHK紅白歌合戦, The 70th NHK Red & White Song Battle) | NHK | Abby đại diện nhóm biểu diễn bài hát Koisuru Fortune Cookie cùng các nhóm chị em thuộc AKB48 ngày 31/12 | ||
2020 | MYX Live! Performance | Myx | Khách mời | |
OMJ | DZMM TeleRadyo | |||
Magandang Buhay | ABS-CBN | |||
Pinoy Big Brother: Connect | A2Z, Kapamilya Channel | |||
2021 | I Can See Your Voice (season 3) |
Danh sách sự kiện
[sửa | sửa mã nguồn]Các cuộc tổng tuyển cử
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thời gian | Địa điểm | Ghi chú |
MNL48 1st General Election ~Walang Atrasan~[79] | 14/4/2018 | ABS-CBN Vertis Tent, Thành phố Quezon | Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên |
MNL48 2nd General Election[15] | 28/2/2019 | Cuộc tổng tuyển cử thứ 2 | |
MNL48 3rd General Election[80] | 6-20/3/2021 | Tổ chức trực tuyến do đại dịch COVID-19 | Cuộc tổng tuyển cử thứ 3 |
Các chuyến lưu diễn & concert
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thời gian | Địa điểm | Quốc gia | Ghi chú |
Cùng AKB48 Group | ||||
AKB48 Group Asia Festival 2019 in Bangkok[9] | 27/1/2019 | IMPACT Arena, Muang Thong Thani | Bangkok, Thái Lan | 10 thành viên Abby, Brei, Coleen, Faith, Gabb, Jem, Mari, Rans, Sela và Sheki dự sự kiện |
AKB48 Group Asia Festival 2019 in Shanghai[17] | 24/8/2019 | Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Quốc gia | Thượng Hải, Trung Quốc | 8 thành viên Rans, Sheki, Abby, Brei, Belle, Coleen, Kay và Sela dự sự kiện |
AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE[51] | 27/6/2021 | Tokyo Dome City Hall | Tokyo, Nhật Bản |
|
MNL48 tổ chức | ||||
MNL48 First Generation: Living The Dream Concert[81] | 6/4/2019 | New Frontier Theater, Thành phố Quezon | Manila, Philippines |
|
MNL48 2nd General Election Live[82] | 27/4/2019 | ABS-CBN Vertis Tent, Thành phố Quezon | Sự kiện mở đầu cho cuộc Tổng tuyển cử lần thứ 2 của nhóm | |
MNL48 2nd Generation Members Team Concert: No To Oshihen![83] | 6-13- 20/10/2019 | Movie Stars Cafe và TIU Theater | Buổi concert của 3 team MII, NIV, L thế hệ thứ 2 | |
Khác | ||||
ONE LOVE ASIA[31] | 27/5/2020 | Tổ chức trực tuyến do đại dịch COVID-19 | 3 thành viên Abby, Coleen, Sheki biểu diễn cùng các nhóm nhạc chị em thuộc AKB48 Group và các nghệ sĩ nổi tiếng châu Á khác, phát sóng trên Youtube, WebTV ASIA | |
TIF ASIA TOUR KICK OFF[84] | 3/9/2021 |
Sự kiện thể thao
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Thời gian | Địa điểm | Ghi chú |
Pokémon UNITE AKB48 Group Invitational[85] | 8-16/1/2022 | Trực tuyến | Thi đấu Pokémon Unite với BNK48, JKT48, CGM48, đội PADAYON vô địch[86] |
Giải thưởng và đề cử
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Đề cử | Kết quả |
2018 | PPOP Awards For Young Artists[87] | Rising Pop Group of the Year | MNL48 | Đề cử |
RAWR Awards[88] | Favorite Group | |||
Popcharts Music Awards | New Artist of the Year | Đoạt giải | ||
PPOP Awards for Young Artists[89][90] | PPOP Youth Model of the Year | |||
2019 | PPOP Awards For Young Artists[91] | Most Favorite Pop Girl Group of the Year | ||
2020 | MYX Awards[92][93] | Mellow Video of the Year | 365 Araw ng Eroplanong Papel | Đề cử |
RAWR Awards[94] | Favorite Group | MNL48 | Đề cử | |
Star FM Baguio[95] | P-Pop Group Of The Year | Đề cử | ||
2021 | NYLON Manila Big, Bold, Brave Awards | Favorite P-Pop Group | Đề cử | |
PMPC Star Awards for Music[96] | Pop Album of the Year | Ikaw ang Melody | Đề cử | |
Most Played Songs Online Awards[97] | Favorite OPM Music Video | High Tension | Đoạt giải | |
Favorite OPM Artist | MNL48 | Đoạt giải | ||
PPOP Awards[98] | PPOP Girl Group of the Year | Đoạt giải | ||
RAWR Awards[99] | Favorite Group | Đề cử | ||
MYX Music Awards[100] | Artist of the Year | Đề cử | ||
Music Video of the Year | River | Đề cử | ||
2022 | NYLON Manila Big, Bold, Brave Awards[101] | Favorite P-Pop Group | MNL48 | Đề cử |
PPOP Awards[102] | PPOP Girl Group of the Year | |||
Main Vocalist of the Year
(Girl Group Category) |
Sheki Arzaga | |||
Main Visual of the Year
(Girl Group Category) |
Abby Trinidad | |||
TikTok Awards Philippines[103] | PPOP Group of the Year | MNL48 | Đoạt giải |
Nhà hát MNL48
[sửa | sửa mã nguồn]Nhà hát
[sửa | sửa mã nguồn]MNL48 Theater (MNL48 劇場) là nơi đặt nhà hát của nhóm. Màu xanh biển đóng vai trò là màu sắc và họa tiết của nhóm. MNL48 Theater nằm trong Trung tâm mua sắm Eton Centris dọc theo Đại lộ Quezon, Thành phố Quezon, Metro Manila, tọa lạc ở tầng trệt. Theo thông lệ, thành viên sẽ tháo bỏ bức ảnh chân dung ở hội trường nhà hát khi chính thức tốt nghiệp[104].
Biểu diễn tại nhà hát
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 10 tháng 12 năm 2019, MNL48 công bố chương trình biểu diễn tại nhà hát đầu tiên, Party ga Hajimaru yo (Tara na Party) tổ chức vào ngày 18 tháng 1 năm 2020.
Tên | Team | Thời gian |
PARTY ga Hajimaru yo
(Tara na Party) |
Team MII | 25/1/2020 |
Team NIV | 18/1/2020 | |
Team L | 1/2/2020 | |
Thế hệ đầu tiên | 2/2/2020 | |
Thế hệ thứ 2 | 9/2/2020 |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “AKB、HKT、NGTもAKSから独立 国内48グループ今後は地域密着がカギ – 東京スポーツ新聞社”. 東スポWeb – 東京スポーツ新聞社 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
- ^ “New AKB48 sister groups to be formed in Manila, Bangkok and Taipei”.
- ^ “MNL48 announces registration and audition tour dates”. mnl48.hallohallo.com. ngày 13 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
- ^ “MNL48 1st Generation”.
- ^ “MNL48 1st General Election”.
- ^ “Aitakatta (Gustong Makita)”.
- ^ “Koi Suru Fortune Cookie (MNL48 Single)”.
- ^ “Amazing Grace”.
- ^ a b “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Bangkok”.
- ^ “76 thiếu nữ của các nhóm nhạc châu Á diễn ở Thái Lan”.
- ^ Abang, Reggie (28 tháng 2 năm 2019). “MNL48 awes Asia Festival 2019 audience”. The Manila Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.
- ^ Abang, Reggie (17 tháng 5 năm 2019). “MNL48 welcomes new generation members”. The Manila Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.
- ^ “365nichi no Kamihikouki (365 Araw ng Eroplanong Papel)”.
- ^ Abang, Reggie (21 tháng 3 năm 2019). “MNL48 lives dream with first concert”. The Manila Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.
- ^ a b “MNL48 2nd General Election”.
- ^ “Kimi wa Melody (MNL48 Single)”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2021.
- ^ a b “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Shanghai”.
- ^ “MNL48 Ashley Cloud Garcia 'Ash' announced her graduation”. Bunshun English (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
- ^ “LOOK: MNL48 unveiled as new Kapamilyas”. ngày 4 tháng 10 năm 2019.
- ^ Abang, Reggie (ngày 26 tháng 12 năm 2019). “MNL48 steps up with 'High Tension'”. The Manila Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.
- ^ “Official Statement: HHE Management to terminate Cess from MNL48 for violations”. MNL48. ngày 5 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Official Statement: MNL48 welcomes back Kenkyuusei Gia as official member”. MNL48. ngày 5 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “MNL48 Abby represents Philippines on Japan's biggest TV music show”. MNL48. ngày 13 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “LOOK: MNL48's Abby performs on Japan's biggest TV music show”. ABS-CBN News. ngày 1 tháng 1 năm 2020.
- ^ “Official Statement: HHE to terminate Dani from MNL48 due to violations”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2021.
- ^ “Official Statement: Kenkyuusei Karla promoted as MNL48 official member”. MNL48. ngày 18 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Official Statement: MNL48 Faith to take her final bow as MNL48 member”. MNL48. ngày 13 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “Official Statement: Kenkyuusei Sam promoted as MNL48 official member”. MNL48. ngày 26 tháng 1 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2021.
- ^ “WATCH: MNL48 releases 'High Tension' music video”.
- ^ “MNL48 3rd Generation”.
- ^ a b “ONE LOVE ASIA”.
- ^ “MNL48 joins big artists in 'One Love Asia' benefit show”. Manila Standard. 1 tháng 6 năm 2020.
- ^ “MNL48 intensifies the kilig on MNL48 In Love: Valentine Mini Live Concert”. MNL48. 17 tháng 2 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2021.
- ^ “MNL48 Announcement: Alice will part of RIVER Senbatsu”. MNL48. 11 tháng 6 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2020.
- ^ Cambosa, Teddy (10 tháng 6 năm 2020). “MNL48 Alice announces being part of "RIVER" Senbatsu”. PAKSA MNL (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2020.
- ^ “MNL48 premieres "River" music video this Friday”. ABS-CBN Entrtainment. ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ “RIVER (MNL48 Single)”.
- ^ “Baby Blue”.
- ^ “Sweet Talking Sugar”.
- ^ “BABY BLUE「Sweet Talking Suger」 | 音楽 | 無料動画GYAO!”. GYAO! (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2020.[liên kết hỏng]
- ^ “NEGASTAR”.
- ^ “HASHLOVE”.
- ^ Cambosa, Teddy (24 tháng 12 năm 2020). “MNL48's first original track "#HASHLOVE" an ode to Christmas love”. PAKSA MNL (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
- ^ Garcia, Kent (ngày 3 tháng 2 năm 2021). “MNL48 3rd General Election results to be unveiled through 3-day event”. PAKSA MNL (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ ABS-CBN.Corp.comm. “MNL48 unveils third generation members, new center girl this February | ABS-CBN Entertainment”. ent.abs-cbn.com. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2021.
- ^ “MNL48 Crowns Third Generation Center, MNL48 Abby”. mnl48.ph. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021.
- ^ “MNL48 crowns third generation center girl”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). ngày 20 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021.
- ^ “News and Updates”. mnl48.ph. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2021.
- ^ “News and Updates”. mnl48.ph. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2021.
- ^ MNL48 [@mnl48official] (17 tháng 3 năm 2021). “[#MNL48 Third Generation Overall Captain] MNL48 would like to announce and welcome our new Third Generation Overall Captain, MNL48 Sheki!🎉 #MNL48ShekiOverallCaptain t.co/GOYWe1kkVl” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ a b “[#MNL48 on AKB48 Group Asia Festival 2021 Online]”.
- ^ “Stuck on You”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2021.
- ^ “メジャーデビューシングル「HEAD UP」リリース決定!”. Twitter. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Details on MNL48 7th single NO WAY MAN”. Bunshun English (bằng tiếng Indonesia). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2021.
- ^ Gallindo, Daryll (17 tháng 1 năm 2022). “MNL48's Team Padayon Wins Pokémon UNITE AKB48 Group Invitational”. Inquirer (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2021.
- ^ “WATCH: MNL48 drop 7th single 'No Way Man'”. ABS-CBN News (bằng tiếng Anh). 2 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2022.
- ^ “Live events return with P-Pop convention and concert”. BusinessWorld (bằng tiếng Anh). 1 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2022.
- ^ “P-POP idol groups, fans come together for 2022 PPOPCON”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). 7 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2022.
- ^ “MNL48 to join AKB48 in charity marathon event in Japan”. ABS-CBN News (bằng tiếng Anh). 15 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2022.
- ^ “Tugatog fest: MNL48, BINI, BGYO to perform at MOA Arena”. ABS-CBN News. 13 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2022.
- ^ Ng, Scott (4 tháng 8 năm 2022). “MNL48 announce nationwide tour of the Philippines taking place this year”. NME. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2022.
- ^ Trích dẫn cho MNL48 ở Jakarta, Indonesia:
- “MNL48 flies to Indonesia to perform at 'TikTok For You Stage'”. ppopwave. 28 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2022.
- Firda, Junita (28 tháng 10 năm 2022). “Datang ke Indonesia, MNL48 Penasaran Soal Makanan”. JPNN (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2022.
- Nayamenggala, Raden Yusuf (29 tháng 10 năm 2022). “Kolaborasi di TikTok For You Stage, JKT48 dan MNL48 Bawakan Fortune Cookie”. Sindonews (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
- “LOOK: MNL48, JKT48 in heartwarming team-up in Indonesia”. ABS-CBN News. 4 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2022.
- Peñalosa, Gelene (5 tháng 11 năm 2022). “MNL48 joins sister group JKT48 for a performance in Indonesia”. InqPOP!. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022.
- ^ 【MV Full】Aitakatta — Gustong Makita / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 28 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Talulot ng Sakura / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Pag-Ibig Fortune Cookie / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 25 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV】Amazing Grace (My Chains Are Gone) / MNL48 (Gospel Project). Youtube. MNL48. ngày 21 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Palusot Ko'y Maybe / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 23 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV】365 Araw ng Eroplanong Papel / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 5 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Igai Ni Mango / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 8 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Ikaw Ang Melody / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 27 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】Gingham Check / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】High Tension / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 19 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ 【MV Full】RIVER / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ [MV Full] HASHLOVE / MNL48. YouTube. MNL48. ngày 23 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2020.
- ^ “"ICYMI: I See Me – An MNL48 First Generation Documentary": The truth untold about MNL48's idol journey”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2021.
- ^ “MNL48 Abby is set to star in a Japanese film adaption of Seikimatsu Blue”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2021.
- ^ “LOOK: Charo Santos, Daniel Padilla to star in new movie about Yolanda aftermath”. news.abs-cbn.com.
- ^ Corporation, ABS-CBN. “MNL48 oshis bring terror in new digital series "MNL48 Presents: Chain" | ABS-CBN Corporate”. ABS-CBN. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
- ^ “MNL48 1st General Election ~Walang Atrasan~”.
- ^ “MNL48 3rd General Election”.
- ^ “MNL48 First Generation: Living The Dream Concert”.
- ^ “MNL48 2nd General Election Live”.
- ^ “MNL48 2nd Generation Members Team Concert: No To Oshihen!”.
- ^ “TIF ASIA TOUR KICK OFF”. TIF ASIA TOUR | ZAIKO. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2021.
- ^ “Pokémon UNITE AKB48 Group Invitational - Liquipedia Pokémon Wiki”. liquipedia.net. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2021.
- ^ “MNL48 conquers SEA48 through Pokemon UNITE”. Bunshun English (bằng tiếng Indonesia). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2022.
- ^ “PPOP Awards for Young Artists 2018”. When In Manila (bằng tiếng Anh). 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
- ^ “RAWR Awards 2019 – PRIDE CATEGORIES”. LionhearTV (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
- ^ “MNL48 receives PPOP Awards' PPOP Youth Model of the Year 2018”. mnl48.ph. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.[liên kết hỏng]
- ^ Katigbak, Fran (19 tháng 1 năm 2019). “MNL48 makes (J) pop”. Inquirer Lifestyle (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
- ^ Pancho, Jesse (30 tháng 11 năm 2019). “Ppop awards for young artist awards night 2019”. IdolversePH (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.[liên kết hỏng]
- ^ “Here Are The MYX AWARDS 2020 Nominees”. myx.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
- ^ Garcia, Kent (21 tháng 5 năm 2020). “365ANEP music video gets 2020 MYX Awards nomination”. PAKSA MNL (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2020.
- ^ “VOTE NOW! RAWR AWARDS 2020”. myx.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
- ^ 89.5 Star FM - Philippines [@StarFMBaguio] (12 tháng 12 năm 2020). “Retweet, react, comment to vote! Is MNL48 @mnl48official your P-Pop Group of the Year? Vote for them now on the #StarFMBestOf2020. See our pinned post for the official voting format. Facebook voting will open soon so like our page now: t.co/GS4xHJaGjy t.co/Izf87l0kco” (Tweet) (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ “LIST: PMPC releases nominees for 12th Star Awards for Music”. news.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2021.
- ^ “MOST PLAYED SONGS ONLINE AWARDS 2021”. mostplayedsongs.weebly.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2021.
- ^ “PPOP Girl Group of the Year”. PPOPAwards. 2 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2021.
- ^ “RAWR Awards is all set for Another Bigger, Broader Scope of Awards this 2021”. LionhearTV (bằng tiếng Anh). 16 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2021.
- ^ “LIST: MYX Awards 2021 nominees revealed”. news.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
- ^ Bautista, Rafael (18 tháng 5 năm 2022). “HERE ARE THE NOMINEES OF BIG, BOLD BRAVE AWARDS: THE SEQUEL”. Nylon Manila. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2022.
- ^ ppopwave (15 tháng 6 năm 2022). “Nominees unveiled for the major categories of the 7th PPOP Awards”. P-pop Wave (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2022.
- ^ “TikTok Awards Philippines 2022”. activity.tiktok.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ ANIMEPH (9 tháng 4 năm 2019). “LOOK: MNL48 Theater soon to open in Centris”. ANIMEPH (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2020.