Lutjanus rufolineatus
Lutjanus rufolineatus | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Lutjaniformes |
Họ (familia) | Lutjanidae |
Chi (genus) | Lutjanus |
Loài (species) | L. rufolineatus |
Danh pháp hai phần | |
Lutjanus rufolineatus (Valenciennes, 1828) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Lutjanus rufolineatus là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Từ nguyên
[sửa | sửa mã nguồn]Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: rufus ("đỏ") và lineata ("sọc"), hàm ý đề cập đến các sọc đỏ dọc theo chiều dài cơ thể của loài cá này[2] (có lẽ là ở các mẫu vật đã được bảo quản trong cồn).
Phạm vi phân bố và môi trường sống
[sửa | sửa mã nguồn]Từ Lakshadweep và Maldives, L. rufolineatus được phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall, Samoa và Tonga, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), giới hạn phía nam đến Úc.[1][3] L. rufolineatus cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam.[4][5]
L. rufolineatus sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 200 m,[1] có thể hợp thành đàn đến vài trăm cá thể.[6]
Mô tả
[sửa | sửa mã nguồn]Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. rufolineatus là 30 cm.[6] Cá có màu hồng hoặc hơi đỏ, trắng/xám bạc ở bụng. Hai bên lườn có các dải sọc vàng dọc theo chiều dài cơ thể. Một số cá thể có đốm đen nằm dưới vây lưng mềm, ngang đường bên. Gai vây lưng màu trắng, có viền vàng ở rìa. Vây đuôi màu vàng. Các vây còn lại vàng nhạt, nhưng vây bụng đôi khi là màu trắng.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.[7]
Sinh học
[sửa | sửa mã nguồn]Thức ăn của L. rufolineatus là các loài cá nhỏ hơn và các loài động vật giáp xác.[6] Loài này có thể sống đến ít nhất là 12 năm.[8]
Thương mại
[sửa | sửa mã nguồn]L. rufolineatus là một loài cá có giá trị trong ngành đánh bắt thủ công, thường được bán tươi ở các chợ cá.[7]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Russell, B.; Lawrence, A.; Myers, R.; Carpenter, K. E. & Smith-Vaniz, W. F. (2016). “Lutjanus rufolineatus”. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T194386A2328595. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194386A2328595.en. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2023.
- ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Diacope rufolineata”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2023.
- ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
- ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus rufolineatus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
- ^ a b W. D. Anderson & G. R. Allen (1999). “Lutjanidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 2890. ISBN 92-5-104587-9.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Taylor, Brett M.; Oyafuso, Zack S.; Pardee, Cassandra B.; Ochavillo, Domingo; Newman, Stephen J. (2018). “Comparative demography of commercially-harvested snappers and an emperor from American Samoa”. PeerJ. 6: e5069. doi:10.7717/peerj.5069. ISSN 2167-8359. PMC 6011874. PMID 29938139.