Bước tới nội dung

Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản
大日本帝國陸軍航空部隊
Dainippon Teikoku Rikugun Kōkūbutai
Hoạt động1912–1945
Quốc gia Đế quốc Nhật Bản
Quân chủng Lục quân Đế quốc Nhật Bản
Phân loạiKhông quân
Chức năngKhông chiến
Bộ phận củaQuân đội Đế quốc Nhật Bản
Tham chiếnChiến tranh thế giới thứ nhất
Sự kiện Phụng Thiên
Chiến tranh Trung-Nhật
Chiến dịch Khalkhyn Gol
Chiến tranh thế giới thứ hai
Các tư lệnh
Chỉ huy danh nghĩa Thiên hoàng Nhật Bản
Chỉ huy
nổi tiếng
Hajime Sugiyama
Vương tước Higashikuni Naruhiko
Hata Shunroku
Kawabe Masakazu
Huy hiệu
Dấu tròn

Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản hay Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản (tiếng Nhật: 大日本帝國陸軍航空部隊, đã Latinh hoá: Dainippon Teikoku Rikugun Kōkūbutai, n.đ.'Đại Nhật Bản đế quốc lục quân hàng không bộ đội' là binh chủng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Cũng giống như quân chủng Lục quân nói chung chủ yếu được mô phỏng theo Quân đội Đức, Bộ đội hàng không ban đầu được phát triển theo đường lối tương tự Không quân Lục quân Đế quốc Đức (tức Luftstreitkräfte); nhiệm vụ chính của binh chủng này là hỗ trợ không lực tầm gần cho lực lượng mặt đất, cũng như đánh chặn trên không, tuy khả năng này còn hạn chế. Binh chủng cũng thực hiện trinh sát trên không cho nhiều binh chủng khác của Lục quân. Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật còn tham gia ném bom chiến lược vào nhiều thành phố như Thượng Hải, Nam Kinh, Quảng Châu, Trùng Khánh, RangoonMandalay, dù đây không phải là nhiệm vụ chính của binh chủng này, vào thời điểm đó binh chủng thậm chí còn thiếu lực lượng oanh tạc cơ hạng nặng.

Binh chủng này cũng không thường xuyên triển khai máy bay quan sát/dò tìm pháo binh địch; mà giao cho các tiểu đoàn pháo binh dưới mặt đất điều khiển máy bay hạng nhẹ cùng khinh khí cầu làm vai trò này.

Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản vẫn chịu hầu hết trách nhiệm về oanh tạc cơ và tấn công tầm xa, cũng như phòng không chiến lược. Mãi đến giai đoạn sau của Chiến tranh Thái Bình Dương, hai lực lượng không quân này mới cố gắng hợp lại để bảo vệ các đảo quê hương.

Khí cầu quan sát điển hình trước Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Phi cơ cánh đôi Farnham III
Shigeno Kiyotake (滋野清武)

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Quân đội Nhật Bản bắt đầu quan tâm đến khinh khí cầu vào giữa thế kỉ 19, sau khi ghi nhận quân đội các nước châu Âu sử dụng. Năm 1874, người Nhật lần đầu tiên tiến hành thử nghiệm bay lên tại một trường quân sự thiếu sinh quân. Nước Nhật bắt đầu chế tạo khinh khí cầu của riêng họ vào năm 1877, dựa trên một chiếc mua được của Pháp. Nhà công nghiệp Yamada Isaburô, bắt đầu phát triển khinh khí cầu hiđrô vào năm 1897. Năm 1900, ông phát minh ra khinh khí cầu hình trụ rồi bán cho Quân đội Đế quốc Nhật Bản. Quân đội lần đầu tiên triển khai những khinh khí cầu này trong Chiến tranh Nga–Nhật năm 1904-1905, nhằm phát hiện pháo binh đối phương.[1][2][3]

Năm 1907, Trung tá Eisuke Yamamoto tiếp xúc với Tướng Terauchi Masatake, Bộ trưởng Lục quân và Đô đốc Minoru Saitō, Bộ trưởng Hải quân. Họ cùng xây dựng một chính sách hàng không, thành lập một đơn vị khinh khí cầu quân sự chuyên dụng. Năm 1909, cùng với Hải quân Đế quốc Nhật BảnĐại học Đế quốc Tōkyō, Rinji Gunyo Kikyu Kenkyukai (tức Hội Nghiên cứu Khinh khí cầu Quân sự Lâm thời) được thành lập. Hội do Thiếu tướng Masahiko Obama làm chủ tịch và tiếp tục thúc đẩy chính sách hàng không của Nhật Bản cho đến năm 1920.[2] Trong tháng 3 năm đó, Trung úy Lục quân Hino và Kĩ sư Hải quân Sanji Narahara mỗi người thiết kế một chiếc máy bay. Narahara đã bay chiếc máy bay này vào ngày 5 tháng 5 năm 1910, trở thành phi cơ đầu tiên do Nhật Bản chế tạo làm được như vậy. Các thiết kế sau đó đều không thành công, Lục quân và Hải quân quyết định sử dụng máy bay nhập từ nước ngoài cho đến khi có thể xây dựng đủ trình độ kĩ thuật ở Nhật Bản để thiết kế máy bay của riêng mình.[1][4]

Năm 1910, hội cử Đại úy Yoshitoshi Tokugawa và Đại úy Hino Kumazō lần lượt sang Pháp và Đức để nhận đào tạo phi công và mua máy bay.[5] Quân đội Nhật Bản đã mua chiếc phi cơ đầu tiên, đó là một chiếc hai tầng cánh Farman và một chiếc cánh đơn Grade, được các sĩ quan từ Tây Âu mang về.[5] Vào ngày 19 tháng 12 năm 1909, Cơ trưởng Yoshitoshi Tokugawa trên chiếc Farman III đã thực hiện chuyến bay chạy bằng năng lượng đầu tiên thành công trên đất Nhật Bản tại Sân diễu hành Yoyogi ở Tokyo.[2] Năm sau, 1911, một số máy bay khác đã được nhập khẩu, một phiên bản cải tiến của máy bay hai tầng cánh Farman III là Kaishiki Số 1, được chế tạo và bay tại Nhật Bản bởi Đại úy Togugawa.[5] Cũng trong năm 1911, một quyết định chính sách được đưa ra, chính thức tách không lực Lục quân và Hải quân thành hai nhánh riêng biệt.[4]

Máy bay biên chế lục quân đầu tiên của Nhật Bản
Năm Máy bay Loại Số
1910 Farnham III 1
Grade cánh đơn 1
1911 không rõ không rõ
Kaishiki Số 1 1

Chiến tranh thế giới thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1914, khi chiến tranh bùng nổ, quân Nhật bao vây thuộc địa Thanh Đảo của Đức, máy bay của lục quân và hải quân tiến hành nhiều hoạt động trinh sát và oanh tạc. Đoàn Không quân Lâm thời gồm bốn chiếc Maurice Farman MF.7 hai tầng cánh và một chiếc Nieuport VI-M đơn cánh đã thực hiện hết 86 phi vụ.[6] Vào tháng 12 năm 1915, một tiểu đoàn không quân hợp từ 1 đại đội không quân và 1 đại đội khinh khí cầu được thành lập dưới Vận tải Lục quân chỉ huy bộ, đặt tại Tokorozawa. Vận tải Lục quân chỉ huy bộ chịu trách nhiệm cho tất cả các hoạt động trên không. Tổng cộng 10 máy bay đã được bổ sung vào Bộ đội Hàng không Lục quân vào những năm 1914 và 1915.[7]

Một số phi công Nhật Bản đã phục vụ cho đoàn bay Pháp trong cuộc chiến. Shigeno Kiyotake gia nhập đoàn bay vào tháng 12 năm 1914. Ông là thành viên của liên đoàn quân át chủ bài của Pháp, được xác nhận đã bắn hạ hai máy bay Đức, sáu máy bay chưa được xác nhận . Ông được trao tặng Ordre national de la Légion d'honneur, huân chương cao quý nhất của nước Pháp. Kobayashi Shukunosuke trở thành phi công được cấp phép vào tháng 12 năm 1916, tử trận trong Trận tiến công mùa Xuân 1918. Sau này ông được truy tặng giải thưởng Croix de Guerre. Isobe Onokichi, Ishibashi Katsunami, Masaru Kaiya (Hải quân), Tadao Yamanaka, Masatoshi Takeishi, Isakitchy Nagao và Moro Goroku, một kĩ sư máy bay của Kawasaki, cũng từng phục vụ trong Đoàn bay Pháp.[8][9]

Phái bộ quân sự Pháp tới Nhật năm 1918-1919.
Cuộc can thiệp ở Siberia

Sau cuộc chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ nhất thì người ta mới nghiêm túc chú ý đến hàng không quân sự. Các nhà quan sát quân sự Nhật Bản ở Tây Âu đã nhanh chóng nhận ra lợi thế của công nghệ mới này, và sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản mua một số lượng lớn máy bay quân sự dư thừa. gồm 20 chiếc Sopwith 1½ Strutter, 3 chiếc Nieuport 24 và 6 chiếc Spad. Để đối phó với sự gia tăng số lượng máy bay này, ngôi trường dạy bay đầu tiên đã thành lập tại Tozorozawa (Tokorozawa Rikugun Koku Seibi Gakkō), sau đó là Akeno và Shimoshizu.[7] Một phái bộ quân sự Pháp được mời đến Nhật nhằm giúp phát triển ngành hàng không. Sứ mệnh này do Jacques-Paul Faure đứng đầu, gồm 63 thành viên để thiết lập các nguyên tắc cơ bản của lĩnh vực hàng không Nhật Bản, sứ mệnh cũng mang theo một số phi cơ, gồm 30 chiếc Salmson 2A2 cũng như 2 chiếc Caquot điều khiển được. Năm 1919, 40 chiếc Nieuport, 100 chiếc Spad XIII và 2 chiếc Breguet XIV. Trong thời gian này, máy bay Nhật Bản đã có vai trò chiến đấu trong cuộc can thiệp ở Siberia năm 1920 chống lại Hồng quân Bolshevik gần Vladivostok.

Kawasaki Kiểu 88

Sản xuất được máy bay

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà máy sản xuất phi cơ đầu tiên ở Nhật Bản, Công ti Phi hành cơ Nakajima, được thành lập năm 1916, nhận giấy phép chế tạo Nieuport 24, Nieuport-Delage NiD 29 C.1 (với tên gọi Nakajima Ko-4) cũng như động cơ Hispano-Suiza. Nakajima sau đó sản xuất theo giấy phép chiếc Gloster SparrowhawkBristol Jupiter. Tương tự, Công ti Công nghiệp nặng Mitsubishi cũng bắt đầu lắp ráp máy bay theo giấy phép của Sopwith vào năm 1921, Công ti Công nghiệp nặng Kawasaki sản xuất bộc kích cơ Salmson 2 A.2 từ Pháp, đồng thời thuê nhiều kĩ sư Đức, đơn cử như Tiến sĩ Richard Vogt, để sản xuất các thiết kế máy bay ném bom sơ khởi như Kiểu 88. Ngoài ra, Kawasaki còn sản xuất động cơ máy bay theo giấy phép của BMW. Vào cuối những năm 1920, Nhật Bản đã có thể sản xuất những thiết kế độc quyền, đáp ứng được nhu cầu của Lục quân, và đến năm 1935, Nhật Bản đã trữ được một lượng lớn các thiết kế phi cơ bản địa có kĩ thuật tinh vi.

Tái tổ chức

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1919, lực lượng không quân lục quân của Đế quốc Nhật Bản được tổ chức thành một chuỗi chỉ huy riêng trong Bộ Chiến tranh Nhật Bản. Tháng 5 năm 1925, Bộ đội hàng không Đế quốc Nhật Bản chính thức được thành lập dưới sự chỉ huy của Trung tướng Kinichi Yasumitsu, được coi như binh chủng ngang hàng với pháo binh, kỵ binh hoặc bộ binh,[10] và có 3.700 quân nhân với khoảng 500 máy bay.[10] Trong một cuộc tái tổ chức vào ngày 5 tháng 5 năm 1927, lập ra Liên đội bay (飛行連隊 (Phi hành liên đội) Hikō Rentai?), mỗi liên đội gồm hai tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn bao gồm tối đa bốn phi đoàn. Mỗi Liên đội bay là một đơn vị hợp thành, gồm hỗn hợp các phi đoàn chiến đấu cơ, quan trắc cơ.

Đến Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ cấu chỉ huy của Không lực Đế quốc Nhật Bản được chia thành ba nhánh khu vực. Các chiến dịch do Tổng tham mưu trưởng kiểm soát thông qua những khu vực trực tiếp của Lục quân đến các Hàng không quân trong từng khu vực tương ứng. Việc đào tạo thuộc Tổng giám bộ Hàng không, các cá nhân, công việc hành chính và mua sắm thì thuộc cả Bộ trưởng Bộ Chiến tranh và Hàng không chỉ huy bộ.[7]

Chỉ huy Không lực Lục quân

[sửa | sửa mã nguồn]

Các Hàng không quân tương ứng:

  • Đệ nhất Hàng không quân
  • Đệ nhị Hàng không quân
  • Đệ tam Hàng không quân
  • Đệ tứ Hàng không quân
  • Đệ ngũ Hàng không quân
  • Đệ lục Hàng không quân

Tổng giám bộ Hàng không

[sửa | sửa mã nguồn]

Xem Tổng giám bộ Hàng không Lục quân

Bộ trưởng Bộ Chiến tranh

[sửa | sửa mã nguồn]

Xem Bộ Lục quân (Nhật Bản)

Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh thế giới thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Đến năm 1941, Bộ đội Hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản có khoảng 1.500 chiến đấu cơ. Trong những năm đầu tiên của cuộc chiến, Nhật Bản tiếp tục phát triển kĩ thuật và triển khai các máy bay ngày càng tiên tiến, chiếm ưu thế trên không trên hầu hết các chiến trường nhờ kinh nghiệm chiến đấu của phi hành đoàn và chất lượng điều khiển của các phi cơ.

Tuy nhiên, khi chiến tranh tiếp diễn, Nhật Bản nhận thấy rằng khả năng sản xuất của họ không thể sánh được với phe Đồng minh. Ngoài những vấn đề về sản xuất này, Nhật Bản còn phải đối mặt với áp lực chiến đấu liên tục và do đó tiếp tục bị tổn thất. Hơn nữa, liên tiếp xảy ra tình trạng gián đoạn sản xuất do phải di chuyển các nhà máy từ địa điểm này sang địa điểm khác, mỗi lần di chuyển đều nhằm mục đích tránh bị oanh tạc chiến lược bởi quân Đồng minh. Giữa những yếu tố kể trên và nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như các vật liệu chiến lược bị hạn chế, người Nhật thấy mình vượt trội về mặt vật chất.

Về nhân lực, Nhật Bản thậm chí còn kém hơn. Các phi hành đoàn có kinh nghiệm đều đã tử trận và việc thay thế họ thì chưa được lên kế hoạch. Người Nhật đã mất đi quá nhiều sĩ quan huấn luyện lành nghề, và họ không có nhiên liệu cũng như thời gian để có thể sử dụng những nhân sự huấn luyện mà họ hiện có. Vì những lẽ đó, vào cuối thời kì tồn tại của mình, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc đã dùng đến những cuộc xung kích kamikaze, chống lại lực lượng Đồng minh áp đảo.

Biểu đồ nhận dạng máy bay quân sự Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thiếu tá Kobayashi Teruhiko, phi đội trưởng trẻ nhất của Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản.

Máy bay thời Chiến tranh thế giới thứ hai

[sửa | sửa mã nguồn]

Các máy bay quan trọng được Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản sử dụng trong Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh thế giới thứ hai là:

Tiêm kích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nakajima Ki-27 中島 キ27 九七式戦闘機 ( (Trung Đảo Ki-27 cửu thất thức chiến đấu cơ)?) Nate
  • Nakajima Ki-43 中島 キ43 一式戦闘機 隼 ( (Trung Đảo Ki-43 nhất thức chiến đấu cơ "Hayabusa")?) Oscar
  • Nakajima Ki-44 中島 キ44 二式戦闘機 鍾馗 ( (Trung Đảo Ki-44 nhị thức chiến đấu cơ "Shōki")?) Tojo
  • Kawasaki Ki-45 Kai 川崎 キ45改 二式複座戦闘機 屠龍 ( (Xuyên Khi Ki-45 cải nhị thức phức toạ chiến đấu cơ "Toryū")?) Nick
  • Kawasaki Ki-61 川崎 キ61 三式戦闘機 飛燕 ( (Xuyên Khi Ki-61 tam thức chiến đấu cơ "Hien")?) Tony
  • Nakajima Ki-84 中島 キ84 四式戦闘機 疾風 ( (Trung Đảo Ki-84 tứ thức chiến đấu cơ "Hayate")?) Frank
  • Kawasaki Ki-100 川崎 キ100 五式戦闘機 ( (Xuyên Khi Ki-100 ngũ thức chiến đấu cơ)?)
  • Mitsubishi Ki-109 三菱 キ109 試作特殊防空戦闘機 ( (Tam Lăng Ki-109 thí tác đặc thù phòng không chiến đấu cơ)?)
  • Mitsubishi Ki-21 三菱 キ21 九七式重爆撃機 ( (Tam Lăng Ki-21 cửu thất thức trùng bộc kích cơ)?) Sally
  • Mitsubishi Ki-30 三菱 キ30 九七式軽爆撃機 ( (Tam Lăng Ki-30 cửu thất thức khinh bộc kích cơ)?) Ann
  • Kawasaki Ki-32 川崎 キ32 九八式軽爆撃機, ( (Xuyên Khi Ki-32 cửu bát thức khinh bộc kích cơ)?) Mary
  • Kawasaki Ki-48 川崎 キ48 九九式双軽爆撃機 ( (Xuyên Khi Ki-48 cửu cửu thức song khinh bộc kích cơ)?) Lily
  • Nakajima Ki-49 中島 キ49 一〇〇式重爆撃機 呑龍 ( (Trung Đảo Ki-49 nhất thức trùng bộc kích cơ "Thôn Long")?) Helen
  • Mitsubishi Ki-67 三菱 キ67 四式重爆撃機 飛龍 ( (Tam Lăng Ki-67 tứ thức trùng bộc kích cơ "Phi Long")?) Peggy

Tập kích

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Mitsubishi Ki-51 三菱 キ51 九九式襲撃機 ( (Tam Lăng Ki-51 cửu cửu thức tập kích cơ)?) Sonia
  • Kawasaki Ki-102 川崎 キ102 五式双発襲撃機 ( (Xuyên Khi Ki-102 ngũ thức song phát tập kích cơ)?) Randy

Vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nakajima Ki-34 中島 キ34 九七式輸送機 ( (Trung Đảo Ki-34 cửu thất thức thâu tống cơ)?) Thora
  • Mitsubishi Ki-57 三菱 キ57 一〇〇式輸送機 ( (Tam Lăng Ki-57 nhất thức thâu tống cơ)?) Topsy
  • Kawasaki Ki-56 川崎 キ56 一式貨物輸送機 ( (Xuyên Khi Ki-56 nhất thức hoá vật thâu tống cơ)?) Thalia
  • Kokusai Ki-59 国際 キ59 一式輸送機 ( (Quốc Tế Ki-59 nhất thức thâu tống cơ)?) Theresa

Trinh sát

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Mitsubishi Ki-15 三菱 キ15 九七式司令部偵察機 ( (Tam Lăng Ki-15 cửu thất thức ty linh bộ trinh sát cơ)?) Babs
  • Tachikawa Ki-36 立川 キ36 九八式直協偵察機 ( (Lập Xuyên Ki-36 cửu bát thức trực hiệp trinh sát cơ)?) Ida
  • Mitsubishi Ki-51 三菱 キ51 九九式軍偵察機 ( (Tam Lăng Ki-51 cửu cửu thức quân trinh sát cơ)?) Sonia
  • Mitsubishi Ki-46 三菱 キ46 一〇〇式司令部偵察機 ( (Tam Lăng Ki-46 nhất thức ty linh bộ trinh sát cơ)?) Dinah

Huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tachikawa Ki-9 立川 キ9 九五式一型練習機 ( (Lập Xuyên Ki-9 cửu ngũ thức nhất hình luyện tập cơ)?) Spruce
  • Tachikawa Ki-17 立川 キ17 九五式三型練習機 ( (Lập Xuyên Ki-17 cửu ngũ thức tam hình luyện tập cơ)?) Cedar
  • Tachikawa Ki-55 立川 キ55 九九式高等練習機 ( (Lập Xuyên Ki-55 cửu cửu thức cao đẳng luyện tập cơ)?) Ida
  • Tachikawa Ki-54 Okinaw立川 キ54 一式双発高等練習機 ( (Lập Xuyên Ki-54 nhất thức song phát cao đẳng luyện tập cơ)?) Hickory
  • Manshū Ki-79 満州 キ79 二式高等練習機 ( (Mãn Châu Ki-79 nhị thức cao đẳng luyện tập cơ)?)
  • Kokusai Ki-86 国際 キ86 四式基本練習機 ( (Quốc Tế Ki-86 tứ thức cơ bản luyện tập cơ)?) Cypress
  • Kokusai Ki-76 国際 キ76 三式指揮連絡機 ( (Quốc Tế Ki-76 tam thức chỉ huy liên lạc cơ)?) Stella
  • Kayaba Ka-1 萱場 カ号観測機 ( (Huyên Trường Ka-Gō quan trắc cơ)?)

Tổ chức

[sửa | sửa mã nguồn]

Các bộ phận không quân lục quân

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tổng trưởng Văn phòng Không lực Lục quân
  • Cục Tham mưu Hàng không
  • Tổng vụ bộ
  • Tổng giám bộ Hàng không Lục quân
    • Tổng vụ Tổng giám bộ Hàng không Lục quân
  • Bộ Chỉ đạo Huấn luyện Hàng không
  • Trường Sĩ quan Hàng không Lục quân
  • Cục Cung cấp
  • Xưởng binh khí Tachikawa
  • Bộ Không vận Lục quân
  • Bộ Tình báo Hàng không Lục quân

Tổ chức tác chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Cùng với sự bùng nổ của Chiến tranh Trung–Nhật năm 1937, các điều kiện tác chiến phù hợp cho việc dùng nhiều đơn vị nhỏ lẻ, dẫn đến sự thành lập nhiều Đại đội bay độc lập (独立飛行大隊 (Độc lập phi hành đại đội) Dokuritsu Hikō Daitai?) hoặc thậm chí nhỏ hơn nữa là các Trung đội bay độc lập (独立飛行中隊 (Độc lập phi hành trung đội) Dokuritsu Hikō Chutai?), mỗi cái đều có những dấu hiệu đặc trưng riêng.

Vào tháng 8 năm 1938, việc tái tổ chức hoàn toàn Bộ đội hàng không Lục quân đã dẫn đến thành lập Chiến đội bay (飛行戦隊 (Phi hành chiến đội) Hikō Sentai?), thay thế hết tất cả các Đại đội bay và Trung đoàn bay cũ. Mỗi Chiến đội là một đơn vị đơn mục đích, gồm điển hình là ba đội bay, chia thành ba tiểu đội (小隊 shōtai?) mỗi tiểu đội gồm ba máy bay. Tính cả đội bay dự bị và tiểu đội chỉ huy, một Chiến đội bay thường có 45 máy bay (tiêm kích) hoặc tối đa 30 máy bay (ném bom hoặc trinh sát). Hai hoặc nhiều Chiến đội bay hợp thành Phi đoàn (飛行団 (Phi hành đoàn) Hikōdan?), cùng với các căn cứ, đơn vị hỗ trợ và một số đội bay độc lập, hợp thành Tập đoàn bay (飛行集団 (Phi hành tập đoàn) Hikō Shudan?).

Năm 1942, Tập đoàn bay đổi thành Sư đoàn bay (飛行師団 (Phi hành sư đoàn) Hikō Shidan?), nhằm phản ánh thuật ngữ của các sư đoàn bộ binh, nhưng cấu trúc vẫn giữ nguyên. Hai Sư đoàn bay, cùng với một số đơn vị độc lập hợp thành Hàng không quân (航空軍 Kōkū gun?).

Trong suốt phần lớn thời gian của Chiến tranh Thái Bình Dương, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản được tổ chức thành bốn Hàng không quân, với hai đơn vị nữa được bổ sung vào giai đoạn cuối của cuộc chiến:

Vào tháng 4 năm 1944, một cuộc tái tổ chức Bộ đội hàng không Lục quân Đê quốc Nhật Bản đã diễn ra. Các đơn vị bảo dưỡng, đơn vị mặt đất, trước đó là một bộ chỉ huy riêng biệt, sau được sáp nhập vào Chiến đội bay (Hiko Sentai). Các đội bay của Chiến đội được chỉ định lại thành Phi đội (飛行隊 (Phi hành đội) Hikōtai?), các đơn vị mặt đất thì được chỉ định là Chỉnh bị đội (整備隊 Seibutai?).

Những thay đổi khác trong giai đoạn cuối cuộc chiến là sự hình thành của "Đơn vị xung kích đặc thù" và "Đơn vị rung chuyển trên không", đây là những đơn vị chỉ tồn tại trong thời gian ngắn có tên riêng (thường lấy từ thần thoại hoặc lịch sử Nhật Bản), nhưng cũng nằm trong biên các phi đoàn hiện có. Các đơn vị này được huấn luyện đặc biệt với nhiệm vụ không đối không đâm máy bay ném bom quân Đồng minh. Khi đó, chúng thường bỏ vũ trang và gia cố lại khung máy bay.

Trong giai đoạn cuối cuộc chiến, Đơn vị xung kích đặc thù đã phát triển thành những đội quân cảm tử chuyên dụng cho nhiệm vụ thần phong. Khoảng 170 đơn vị trong số này đã được thành lập, 57 đơn vị của riêng Sư đoàn bay hướng dẫn. Được trang bị trên danh nghĩa với 12 máy bay mỗi đội, cuối cùng cả đơn vị bao gồm khoảng 2000 máy bay.

Lần tái tổ chức cuối cùng diễn ra trong quá trình chỉnh bị cho cuộc tác chiến Ketsugō bảo vệ các hòn đảo chính quốc vào năm 1945, khi mà toàn bộ các Hàng không quân được kết hợp lại dưới sự chỉ huy tập trung của Tướng Masakazu Kawabe.[11]

Bộ đội Đặc thù tác chiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Đại úy Okuyama và đơn vị Dù Giretsu khởi hành nhiệm vụ tới Okinawa.

Tập đoàn đĩnh tiến (挺進集団 Teishin Shudan?)lực lượng đặc biệt/đơn vị đổ bộ đường không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Từ teishin (đĩnh tiến) có thể hiểu theo nghĩa đen là "đột kích". Đơn vị này cũng có thể được coi như "biệt kích" trong thuật ngữ của các quân đội khác. Được gọi là sư đoàn, song đơn vị này có quy mô cấp lữ đoàn, và là một phần của Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Do đó, đơn vị Teishin này khác với những đơn vị nhảy dù trên biển của Hải quân đặc biệt lục chiến đội (Kaigun tokubetsu riku sentai)

'Giretsu' (義烈空挺隊 (Nghĩa liệt không đĩnh đội) Giretsu Kūteitai?) là một đơn vị lực lượng đặc biệt trên không của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, thành lập từ những lính dù Lục quân (tức Teishin Shudan) vào cuối năm 1944 như một nỗ lực cuối cùng nhằm giảm thiểu và trì hoãn các cuộc ném bom của quân Đồng minh vào đảo Nhật Bản. Đơn vị Giretsu do Trung tướng Kyoji Tominaga chỉ huy.

Sức mạnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến năm 1940, Bộ đội hàng không Lục quân Đế quốc Nhật Bản có:

    • 33.000 quân nhân
    • Hơn 1.600 máy bay (bao gồm 1.375 máy bay chiến đấu tiền tuyến).
    • Máy bay được tổ chức thành 85 Phi đoàn;
      • 36 máy bay chiến đấu
      • 28 máy bay ném bom hạng nhẹ
      • 22 máy bay ném bom hạng trung
  • Tổng quân số vào tháng 8 năm 1945 là 6.095.000, gồm 676.863 Bộ đội hàng không Lục quân.

Xưởng binh khí hàng không lục quân Tachikawa

[sửa | sửa mã nguồn]

Không lực Lục quân Đế quốc Nhật Bản có một bộ phận kĩ thuật, Xưởng binh khí hàng không lục quân Tachikawa, chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển không lực. Xưởng binh khí này có một đội thử nghiệm các máy bay Đồng minh bắt được là Sở Nghiên cứu kĩ thuật hàng không (Koku Gijutsu Kenkyujo).

Xưởng binh khí Tachikawa cũng liên kết với Tachikawa Hikoki K.K. và Rikugun Kokukosho K.K., đây là các doanh nghiệp chế tạo máy bay do Lục quân sở hữu và điều hành. giống như Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản điều hành công ti riêng là Xưởng Kĩ thuật Hàng không Yokosuka.

Mẫu hạm hộ vệ Kaiyo Maru

Mẫu hạm hộ vệ của Lục quân

[sửa | sửa mã nguồn]

Do mối quan hệ không mấy tốt đẹp giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản, phía Lục quân nhận thấy cần phải mua sắm, vận hành những tàu sân bay của riêng họ với mục đích hộ tống và bảo vệ các đoàn tàu vận tải của Lục quân. Các tàu sân bay hộ tống/vận tải này được cải biến từ các tàu chở khách hoặc tàu buôn nhỏ, có khả năng vận hành từ 8 đến 38 máy bay, tùy thuộc vào loại và kích cỡ, đồng thời cũng được sử dụng để vận chuyển nhân sự cùng xe tăng.

Những con tàu này gồm có Taiyō Maru, Unyō Maru, Chūyō Maru, Kaiyō Maru, Shinyo Maru, Kamakura Maru, Akitsu Maru, Nigitsu Maru, Kumano Maru, Yamashiro Maru, Shimane Maru, Chigusa Maru (chưa hoàn thành) và Otakisan Maru (chưa hoàn thành), được vận hành bởi những hải đoàn dân sự, còn những người lính thì điều khiển các khẩu súng phòng không hạng nhẹ và hạng trung.

Đồng phục và trang thiết bị

[sửa | sửa mã nguồn]

Là một phần không thể thiếu của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, Bộ đội hàng không Lục quân mặc quân phục Lục quân Đế quốc Nhật tiêu chuẩn. Chỉ có phi hành đoàn và quân nhân mặt đất mặc sọc màu xanh da trời, còn các sĩ quan mặc quân phục bậc hàm, hoạ tiết mảng màu xanh da trời.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Rising Sun, David Méchin, Cross & Cockade International, Volume 48 #2, 2017
  2. ^ a b c Hata, Izawa & Shores 2012, tr. 1.
  3. ^ Isaburo Yamada (fai.org), retrieved 4 April 2022
  4. ^ a b The Rise and Fall of the Japanese Imperial Naval Air Service, Peter J. Edwards, Pen and Sword Books, 2010, ISBN 9781844681587
  5. ^ a b c Francillon 1979, tr. 29.
  6. ^ Stephenson 2017, tr. 96.
  7. ^ a b c Air power and warfare the proceedings of the 8th Military History Symposium United States Air Force Academy 18–20 October 1978; United States, Robert C Ehrhart, Alfred F Hurley, Air Force, United States Air Force Academy, Office of Air Force History; Diane Publishing, 1978, ISBN 9781428993945
  8. ^ Warfare 1914-1918 (Japan), Women Soldiers and Flying Aces: Japanese Volunteers in Europe, Jürgen Melzer, 19 October 2017, retrieved 3 April 2022
  9. ^ Japanese Pilots, David Méchin, retrieved 4 April 2022
  10. ^ a b Francillon 1979, tr. 30.
  11. ^ p.107, Skates

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Baëza, Bernard (Tháng 11–12 2019). “Arawasi, "les aigles sauvages" de l'armée impériale japonaise, douzieme partie: la défense du territoire national” [Arawasi, "Đại bàng hoang" của Quân đội Đế quốc Nhật Bản, Phần mười hai: Bảo vệ Tổ quốc]. Avions (bằng tiếng Pháp) (232): 36–51. ISSN 1243-8650. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  • Francillon, René J. (1979). Japanese Aircraft of the Pacific War (ấn bản thứ 2). London: Putnam & Company. ISBN 0-370-30251-6.
  • Hata, Ikuhiko; Izawa, Yashuho; Shores, Christopher (2002). Japanese Army Air Force Units and Their Aces: 1931-1945. London: Grub Street. ISBN 1-902304-89-6.
  • Hata, Ikuhiko; Izawa, Yashuho; Shores, Christopher (2012). Japanese Army Fighter Aces: 1931-45. Stackpole Military History Series. London: Stackpole Books. ISBN 978-1-461-75118-2.
  • Mayer, S.L. (1976). The Rise and Fall of Imperial Japan. The Military Press. ISBN 0-517-42313-8.
  • Sakaida, Henry (1997). Japanese Army Air Force Aces, 1937-1945. Botley, UK: Osprey Publishing. ISBN 1-85532-529-2.
  • Skates, John Ray. The Invasion of Japan: Alternative to the Bomb. Columbia, South Carolina: University of South Carolina Press, 1994. ISBN 0-87249-972-3.
  • Stephenson, Charles (2017). The Siege of Tsingtau: The German-Japanese War 1914. Pen and Sword. ISBN 978-1-52670-295-1.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]