Ida xứ Sachsen-Meiningen
Trang hay phần này đang được viết mới, mở rộng hoặc đại tu. Bạn cũng có thể giúp xây dựng trang này. Nếu trang này không được sửa đổi gì trong vài ngày, bạn có thể gỡ bản mẫu này xuống. Nếu bạn là người đã đặt bản mẫu này, đang viết bài và không muốn bị mâu thuẫn sửa đổi với người khác, hãy treo bản mẫu {{đang sửa đổi}} .Sửa đổi cuối: Anamelessaccount (thảo luận · đóng góp) vào 35 giờ trước. (làm mới) |
Ida xứ Sachsen-Meiningen Ida von Sachsen-Meiningen | |
---|---|
Đại Công tử phi Karl Bernhard xứ Sachsen-Weimar-Eisenach | |
Thông tin chung | |
Sinh | Meiningen, Thüringen | 25 tháng 6 năm 1794
Mất | 4 tháng 4 năm 1852 Weimar | (57 tuổi)
An táng | Weimarer Fürstengruft |
Phối ngẫu | Karl Bernhard xứ Sachsen-Weimar-Eisenach (cưới 1816) |
Hậu duệ |
|
Gia tộc | Nhà Sachsen-Meiningen Nhà Sachsen-Weimar-Eisenach (hôn nhân) |
Thân phụ | Georg I xứ Sachsen-Meiningen |
Thân mẫu | Luise Eleonore xứ Hohenlohe-Langenburg |
Ida Caroline xứ Sachsen-Meiningen (tiếng Đức: Ida von Sachsen-Meiningen; tiếng Anh: Ida of Saxe-Meiningen; 25 tháng 6 năm 1794 – 4 tháng 4 năm 1852), là Công nữ Sachsen-Meiningen và Đại Công tử phi xứ Sachsen-Weimar-Eisenach thông qua hôn nhân. Chị gái của Ida, tức Adelheid xứ Sachsen-Meiningen, là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland.
Thiếu thời
[sửa | sửa mã nguồn]Ida sinh ngày 25 tháng 8 năm 1794 tại Meiningen, Thüringen, Đức, là người con thứ hai của Georg I xứ Sachsen-Meiningen và Luise Eleonore xứ Hohenlohe-Langenburg.[1] Ida được gọi là Công nữ Ida xứ Sachsen-Meiningen, Nữ Công tước tại Sachsen với kính xưng Serene Highness cho đến khi Đại hội Viên (1814–15), khi toàn bộ Vương tộc Wettin được nâng bậc kính xưng thành Điện hạ (tiếng Anh: Highness). Ida có một chị gái là Adelheid, vợ của William IV của Anh và là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và Vương quốc Hannover, một em trai là Bernhard II, Công tước xứ Sachsen-Meiningen.[2]
Năm 1797, khi hai chị em Adelheid và Ida được năm và ba tuổi thì được dạy tiếng Pháp và Ý bởi Friedrich Schenk. Công tước Georg rất quan tâm đến việc giáo dục của hai con và tự mình đề ra chương trình giáo dục, trong đó có phát triển khả năng ghi nhớ, khơi dậy các cảm xúc với tôn giáo và các giá trị đạo đức và phát triển khả năng thông hiểu của hai chị em.[3]
Ngày 24 tháng 12 năm 1803, khi Ida được 9 tuổi thì Công tước Georg qua đời. Trước hoàn cảnh đó, mẹ của Ida, tức Luise Eleonore phải đảm nhận vai trò nhiếp chính vì tân Công tước chưa đến tuổi trưởng thành.[4]
Hôn nhân và cuộc sống sau này
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 30 tháng 5 năm 1816, tại Meiningen, Ida đính hôn với Karl Bernhard xứ Sachsen-Weimar-Eisenach, người phục vụ với cương vị là đại tướng ở Hà Lan. Ngày 2 tháng 6 năm 1816, Ida và Karl Bernhard chính thức kết hôn. Hai ngày sau đó, đôi tân hôn cùng khởi hành đến Weimar.[5] Ida theo chồng đến các đồn trú vào những năm tiếp theo, tuy nhiên vào mùa hè thì Ida sống ở Liebenstein và Cung điện Altenstein. Ida cũng ở đó khi chồng có chuyến công du tới Bắc Mỹ. Năm 1830, Ida và các con đã tham dự lễ gia miện của vợ chồng chị gái Adelheid ở Luân Đôn, và từ năm 1836, Ida chuyển đến Liebenstein và chọn nơi này làm nơi thường trú vào mùa hè.[6] Nhờ vào các hoạt động từ thiện của mình, Ida rất được yêu mến bởi dân chúng.
22 tháng 6 năm 1850, Ida đảm nhận vai trò mẹ đỡ đầu của Arthur của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Connaught và Strathearn, con trai thứ ba của Victoria của Anh và Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Tuy nhiên, vì không thể có mặt nên Ida được đại diện bởi thân mẫu của nữ vương là Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld.
Qua đời và tưởng nhớ
[sửa | sửa mã nguồn]Ngày 4 tháng 4 năm 1852, Ida qua đời vì bệnh viêm phổi tại Weimar on 4 April 1852 aged 57. Lời cuối cùng của Ida là: "Ta mong là đêm nay sẽ ngủ ngon". Ida được chôn cất tại Weimarer Fürstengruft. Hai năm sau, em trai Bernhard đã dựng lên đài tưởng niệm cho Ida tại Burg Liebenstein. Năm 2004, tượng đài trải qua một đợt trùng tu lớn.[7][8]
Hậu duệ
[sửa | sửa mã nguồn]Ida và chồng có tám người con:
- Luise Wilhelmine Adelheid (31 tháng 3 năm 1817 – 11 tháng 7 năm 1832).
- Wilhelm Karl (25 tháng 6 năm 1819 – 22 tháng 5 năm 1839).
- Amalie Auguste Cecilia (30 tháng 5 năm 1822 – 16 tháng 6 năm 1822)
- William Augustus Edward (11 tháng 10 năm 1823 – 16 tháng 11 năm 1902), gia nhập quân đội Anh, phục vụ xuất sắc trong Chiến tranh Krym, trở thành đại tá của Đội cận vệ số 1, và sau là Nguyên soái Anh; kết hôn với Augusta Katherine Gordon-Lennox. Hai vợ chồng không có hậu duệ.
- Herrmann Bernhard Georg (4 tháng 8 năm 1825 – 31 tháng 8 năm 1901), kết hôn với Auguste của Württemberg; một trong các con gái của Herrmann là Pauline kết hôn với Karl August Wilhelm xứ Sachsen-Weimar-Eisenach.
- Friedrich Gustav Karl (28 tháng 6 năm 1827 – 6 tháng 1 năm 1892), kết hôn với Pierina Marocchia di Marcaini, Pierina được phong là Nữ Nam tước xứ Neuperg (23 tháng 5 năm 1872). Hai vợ chồng không có hậu duệ.
- Anna Amalie Maria (9 tháng 9 năm 1828 – 14 tháng 7 năm 1864).
- Amalia Maria da Gloria Augusta (20 tháng 5 năm 1830 – 1 tháng 5 năm 1872), kết hôn với Hendrik của Hà Lan. Hai vợ chồng không có hậu duệ.
Tổ tiên
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Germann 1902, tr. 410.
- ^ Sandars 1915, tr. 15, 18–19.
- ^ Sandars 1915, tr. 19–20.
- ^ Sandars 1915, tr. 23.
- ^ Sandars 1915, tr. 30.
- ^ “Palais Weimar”.
- ^ “Ida Denkmal”.
- ^ “Ida-Denkmal”.
- ^ a b c d e f Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 104.
Nguồn tài liệu
[sửa | sửa mã nguồn]- Sandars, Mary Frances (1915). The Life and Times of Queen Adelaide (bằng tiếng Anh). S. Paul & Company.
- Greenwood, Alice Drayton (1911). Lives of the Hanoverian Queens of England (bằng tiếng Anh). G. Bell and sons.
- Germann, Wilhelm (1902). Bernhard Erich Freund, Herzog von Sachsen-Meiningen-Hildburghausen. daten.digitale-sammlungen.de. Allgemeine Deutsche Biographie. 46. tr. 409–424.