I-46 (tàu ngầm Nhật)
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | Tàu ngầm số 376 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo |
Đặt lườn | 21 tháng 11, 1942 |
Đổi tên | I-46, 25 tháng 5, 1943 |
Hạ thủy | 3 tháng 6, 1943 |
Hoàn thành | 29 tháng 2, 1944 |
Nhập biên chế | 29 tháng 2, 1944 |
Số phận | Mất tích tại khu vực biển Philippine, tháng 10, 1944 |
Xóa đăng bạ | 10 tháng 3, 1945 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm Type C2 |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 109,3 m (358 ft 7 in) chung[1] |
Sườn ngang | 9,1 m (29 ft 10 in)[1] |
Mớn nước | 5,35 m (17 ft 7 in)[1] |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | |
Độ sâu thử nghiệm | 100 m (330 ft)[1] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 101[1] |
Vũ khí |
|
I-46 là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó tham gia hoạt động trong các trận Leyte và trận Hải chiến vịnh Leyte trước khi bị mất tích tại khu vực biển Philippine vào tháng 10, 1944.
Thiết kế và chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết kế
[sửa | sửa mã nguồn]Tàu ngầm Type C được thiết kế dựa trên phân lớp KD6 của lớp Kaidai dẫn trước, nhưng trang bị vũ khí ngư lôi mạnh hơn để tấn công tầm xa. Chúng có trọng lượng choán nước 2.595 tấn (2.554 tấn Anh) khi nổi và 3.618 tấn (3.561 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 109,3 m (358 ft 7 in), mạn tàu rộng 9,1 m (29 ft 10 in) và mớn nước sâu 5,3 m (17 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft).[3]
Tàu ngầm Type C được trang bị hai động cơ diesel công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW). Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type C là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]
Các con tàu có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in), cùng hai pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đơn hoặc nòng đôi. Các bộ gá trên boong tàu phía sau tháp chỉ huy cho phép nó vận chuyển và phóng một tàu ngầm bỏ túi Type A (Kō-hyōteki).[5]
Chế tạo
[sửa | sửa mã nguồn]Được đặt hàng trong Chương trình Maru Kyū năm 1941, I-46 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 376 tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 21 tháng 11, 1942.[6][7] Nó được đổi tên thành I-46 vào ngày 25 tháng 5, 1943[6][7] trước khi được hạ thủy vào ngày 3 tháng 6, 1943.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 29 tháng 2, 1944,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Yamaguchi Kozaburo.[6][7]
Lịch sử hoạt động
[sửa | sửa mã nguồn]Bị mất
[sửa | sửa mã nguồn]Hoàn cảnh cụ thể khiến I-46 bị mất vẫn còn là một bí ẩn.[7] Lúc 12 giờ 18 phút ngày 28 tháng 10, ở vị trí về phía Đông đảo Leyte, các tàu khu trục USS Gridley và USS Helm phát hiện một tàu ngầm đối phương tìm cách xâm nhập qua hàng rào bảo vệ của Đội đặc nhiệm 38.4 Hải quân Hoa Kỳ, vốn bao gồm các tàu sân bay USS Enterprise, USS Franklin, USS Belleau Wood và USS San Jacinto.[7] Trong khi các tàu sân bay đổi hướng ở tốc độ cao để né tránh, Gridley tung ra ba lượt mìn sâu tấn công chiếc tàu ngầm, và Helm bốn lượt. Sau lượt tấn công cuối cùng của Helm lúc 14 giờ 11 phút, nghe thấy một tiếng nổ lớn ngầm dưới nước và kèm theo vai vụ nổ nhỏ khác.[7] Dầu và bọt khí bắt đầu trồi lên mặt nước, và sau đó là nhiều mảnh vỡ của sàn tàu và mảnh xác người,[7] xác nhận một tàu ngầm đã bị đánh chìm tại tọa độ 10°58′B 127°13′Đ / 10,967°B 127,217°Đ.[7]
Vào cả hai ngày 30 tháng 10 và 1 tháng 11, 1944, các tàu ngầm I-26, I-46 và I-54 đã không gửi báo cáo tình huống hàng ngày lúc 19 giờ 00 như quy định.[7] Đến ngày 2 tháng 12, Hải quân Nhật Bản công bố I-46 có thể đã bị mất về phía Đông Philippines với tổn thất toàn bộ 112 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[6][7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.[6][7]
Định danh chính xác chiếc tàu ngầm bị Gridley và Helm đánh chìm vẫn còn là một bí ẩn.[7] Có giả thuyết cho rằng tàu hộ tống khu trục USS Lawrence C. Taylor đã đánh chìm I-46 trong biển Philippine về phía Đông đảo Samar vào ngày 18 tháng 11, 1944, nhưng có thể Lawrence C. Taylor đã đánh chìm tàu ngầm I-41.[7][8] Một số sử gia cho rằng I-46 bị các tàu khu trục USS Saufley, USS Waller, USS Pringle và USS Renshaw (DD-499) đánh chìm tại khu vực vịnh Ormoc vào ngày 28 tháng 11, nhưng đến lúc đó I-46 đã mất liên lạc gần một tháng, và mục tiêu bị đánh chìm có thể là tàu ngầm Lục quân Yu 2.[9]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e f g h i j k l m n “Type C2”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ Campbell (1985), tr. 191.
- ^ Bagnasco (1977), tr. 192.
- ^ Chesneau (1980), tr. 201.
- ^ a b Carpenter & Polmar (1986), tr. 104.
- ^ a b c d e f g “I-46 ex No-376”. ijnsubsite.info. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2018). “IJN Submarine I-46: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2017). “IJN Submarine I-41: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
- ^ Mühlthaler (1998), tr. 330.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
- Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
- Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN 978-1-4728-4779-9.
- Morison, Samuel Eliot (1949). “The Struggle for Guadalcanal”. The History of United States Naval Operations in World War II. 5. Edison, NJ: Castle Books. tr. 131–134, 233.
- Mühlthaler, Erich (1998). “Re:Imperial Japanese Army Transport Submarines”. Warship International. XXXV (4): 329–330. ISSN 0043-0374.
- Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- “I-46 ex No-376”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2018). “IJN Submarine I-46: Tabular Record of Movement”. Combinedfleet.com. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2024.
- Lớp tàu ngầm Type C
- Tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II
- Trận chiến vịnh Leyte
- Xác tàu đắm trong Thế Chiến II trong biển Philippine
- Tàu ngầm bị tàu chiến Hoa Kỳ đánh chìm
- Sự cố hàng hải năm 1944
- Tàu thủy năm 1943
- Hải chiến vịnh Leyte
- Tàu ngầm bị mất tích trong Thế Chiến II
- Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại Thái Bình Dương
- Xác tàu đắm trong Thế Chiến II tại biển Philippine