Bước tới nội dung

HMS Braithwaite (K468)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
HMS Braithwaite (K468) đang quay trở về cảng Londonderry, Bắc Ireland, ngày 21 tháng 2 năm 1945.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Straub (DE-77)
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 10 tháng 5, 1943
Hạ thủy 31 tháng 7, 1943
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc, 10 tháng 6, 1943
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 17 tháng 12, 1945
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 6, 1946
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Braithwaite (K468)
Đặt tên theo Samuel Braithwaite
Nhập biên chế 13 tháng 11, 1943
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 17 tháng 12, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Braithwaite (K468) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS Straube (DE-77), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Đại tá Hải quân Samuel Braithwaite, hạm trưởng chiếc HMS Kingston (1697) và đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha.[1][2] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[3][4]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[5] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [3][4] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[5]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5][6] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[5]

Con tàu được đặt lườn như là chiếc Straube (DE-77) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 10 tháng 5, 1943 và được hạ thủy vào ngày 31 tháng 7, 1943.[7][8] Tuy nhiên trước đó nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 10 tháng 6, 1943,[1][9][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Braithwaite (K468) vào ngày 13 tháng 11, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Eric Morrison Mackay.[7][8]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Braithwaite đã hoạt động cùng các Đội hộ tống 3 và 10 trong suốt cuộc chiến tranh, khi tham gia hộ tống các đoàn tàu vượt Đại Tây Dương cũng như hoạt động tại Bắc Hải Normandyeo biển Manche.[1]

Vào ngày 3 tháng 2, 1945, Braithwaite phối hợp cùng các tàu frigate Bayntun (K310)Loch Eck (K422) tấn công bằng mìn sâu và đã đánh chìm tàu ngầm U-boat Đức U-327[Note 2] tại Bắc Hải về phía Tây Bắc Bergen, ở tọa độ 61°21′B 02°00′Đ / 61,35°B 2°Đ / 61.350; 2.000. Toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn của U-327 đều tử trận.[10]

Đến ngày 14 tháng 2, 1945, Braithwaite lại tiếp tục cùng Bayntun, Loch Eck, và có sự tham gia của tàu frigate Loch Dunvegan (K425) phối hợp tấn công bằng mìn sâu để đánh chìm tàu ngầm U-989 tại Bắc Hải ngoài khơi quần đảo Faroe, ở tọa độ 61°36′B 01°35′T / 61,6°B 1,583°T / 61.600; -1.583. Toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn của U-989 đều tử trận.[1][11]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Braithwaite quay trở về Hoa Kỳ, đi đến Xưởng hải quân New York vào ngày 11 tháng 12, 1945; nó được chính thức hoàn trả cho Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 12 nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được cho xuất biên chế vào ngày 8 tháng 1, 1946 và rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 1, 1946. Cuối cùng con tàu được bán cho hãng Northern Metals Co. tại Philadelphia vào tháng 6, 1946 để tháo dỡ.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Cái tên USS Straube sau đó được đặt lại cho chiếc USS Oswald (DE-181), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon
  2. ^ Nguồn DANFS (Dictionary of American Naval Fighting Ships) cho rằng đó là chiếc U-1279, nhưng chi tiết này không khớp với các nguồn khác

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Naval Historical Center. Braithwaite. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Tynan, Roy (2003). “HMS Braithwaite K468 (DE 77)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  4. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  5. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  6. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  7. ^ a b Yarnall, Paul R (ngày 27 tháng 10 năm 2013). “Straube (DE 77)/HMS Braithwaite (K468)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ a b Helgason, Guðmundur. “HMS Braithwaite (K 468)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  9. ^ Naval Historical Center. Straube (DE-181). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-327”. uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “U-989”. uboat.net. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]