Bước tới nội dung

Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2005–06

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
FA Premier League
Mùa giải2005–06
Thời gian13 tháng 8 năm 2005 – 7 tháng 5 năm 2006
Vô địchChelsea
Danh hiệu Premier League thứ 2
Danh hiệu vô địch nước Anh thứ 3
Xuống hạngBirmingham City
West Bromwich Albion
Sunderland
Champions LeagueChelsea
Manchester United
Liverpool
Arsenal
UEFA CupTottenham Hotspur
Blackburn Rovers
West Ham United
Intertoto CupNewcastle United
Số trận đấu380
Số bàn thắng944 (2,48 bàn mỗi trận)
Vua phá lướiThierry Henry
(27 bàn)
Thủ môn xuất sắc nhấtPepe Reina (20 trận sạch lưới)
Chiến thắng sân
nhà đậm nhất
Arsenal 7–0 Middlesbrough
(14 tháng 1 năm 2006)
Chiến thắng sân
khách đậm nhất
Everton 0–4 Bolton Wanderers
(17 tháng 12 năm 2005)
Middlesbrough 0–4 Aston Villa
(4 tháng 2 năm 2006)
Fulham 0–4 Arsenal
(4 tháng 3 năm 2006)
Trận có nhiều bàn thắng nhấtCharlton Athletic 2–5 Manchester City
(4 tháng 12 năm 2005)
Wigan Athletic 4–3 Manchester City
(26 tháng 12 năm 2005)
Arsenal 7–0 Middlesbrough
(14 tháng 1 năm 2006)
Blackburn Rovers 4–3 Manchester United
(1 tháng 2 năm 2006)
Fulham 6–1 West Bromwich Albion
(11 tháng 2 năm 2006)
Middlesbrough 4–3 Bolton Wanderers
(26 tháng 3 năm 2006)
Chuỗi thắng dài nhất10 trận[1]
Chelsea
Liverpool
Chuỗi bất bại dài nhất13 trận[1]
Chelsea
Chuỗi không
thắng dài nhất
14 trận[1]
Sunderland
Chuỗi thua dài nhất9 trận[1]
Sunderland
Trận có nhiều khán giả nhất73,006
Manchester United 4–0 Charlton Athletic
(7 tháng 5 năm 2006)
Trận có ít khán giả nhất16,550
Fulham 0–0 Birmingham City
(13 tháng 8 năm 2005)
Tổng số khán giả12,876,213
Số khán giả trung bình33,885

Giải bóng đá Ngoại hạng Anh mùa giải 2005–06 (được biết đến với tên gọi FA Barclays Premiership vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 14 của Premier League. Giải đấu bắt đầu vào ngày 13 tháng 8 năm 2005 và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 2006. Mùa giải này chứng kiến câu lạc bộ ​​Chelsea bảo vệ thành công chức vô địch sau khi đánh bại Manchester United với tỷ số 3–0 tại sân Stamford Bridge vào cuối tháng 4. Cùng ngày hôm đó, hai câu lạc bộ West Bromwich AlbionBirmingham City đã xuống hạng, cùng với đội đã được xác định xuống hạng trươc đó là Sunderland tham dự Championship cho mùa giải tiếp theo. Chelsea đã san bằng kỷ lục mà họ lập được ở mùa giải trước với 29 trận thắng trên sân nhà và sân khách.[2][3]

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số câu lạc bộ báo cáo lượng khán giả đến sân không như mong đợi và gặp khó khăn trong việc bán hết vé cho các trận đấu trong vòng đấu đầu tiên của mùa giải. Nhiều người cho rằng nguyên nhân chính là do mùa giải bắt đầu khá sớm và loạt trận Ashes của môn cricket đã thu hút sự chú ý của cả nước và đội tuyển Anh đã giành chiến thắng. Những lý do có thể khác là giá vé liên tục tăng cao và số lượng trận đấu được phát trên truyền hình ngày càng tăng (gây ra hiệu ứng lan tỏa là thời gian bắt đầu trận đấu thay đổi nhiều hơn). Tổng lượng khán giả đến sân trong mùa giải chỉ giảm khoảng 2%, nhưng con số đó đã giảm do thực tế là các câu lạc bộ lớn hơn đã được thăng hạng lên Giải Ngoại hạng Anh hơn là xuống hạng và một số câu lạc bộ đã phải chịu sự sụt giảm doanh thu lớn hơn.

Lần thứ hai trong hai mùa giải, câu lạc bộ Chelsea của José Mourinho đã giành danh hiệu vô địch tại Premier League, với chiến thắng trên sân nhà trước đối thủ thường xuyên cạnh tranh ngôi vô địch gần đây là Manchester United, qua đó xác nhận họ là nhà vô địch sau một mùa giải lập kỷ lục mặc dù mùa giải này diễn ra vô cùng căng thẳng.

Phong độ đầu mùa của Chelsea với 14 trận thắng trong số 16 trận đã mang đến cho nhà đương kim vô địch một khởi đầu tuyệt vời. Với việc Manchester United, ArsenalLiverpool thi đấu không như kỳ vọng của họ trước Giáng sinh, Chelsea thực sự đã trở thành ứng cử viên số một cho ngôi vô địch vào đầu năm 2006. Tuy nhiên, sự sa sút bất ngờ về phong độ vào giữa tháng 3 đã khiến khoảng cách điểm số giữa đội đầu bảng và nhóm bám đuổi tưởng chừng như không thể san lấp là 16 điểm của họ bị thu hẹp xuống chỉ còn 7 điểm trong hai tháng do phong độ ấn tượng vào cuối mùa của câu lạc bộ Manchester United, đội đã có chuỗi chín trận thắng liên tiếp và ghi được hơn 20 bàn thắng. Tuy nhiên, trận hòa bất ngờ trên sân nhà với đội cuối bảng Sunderland tại sân Old Trafford đã làm tan biến hy vọng giành chức vô địch của United. Khí thế đã trở lại với Chelsea, đội không cần phải nhận thêm một sự cạnh tranh gay gắt nào nữa với những chiến thắng trước Bolton Wanderers, Everton và cuối cùng là Manchester United, mang về cho đội bóng phía tây London chức vô địch thứ hai liên tiếp dưới thời Mourinho.[2][3]

Hai câu lạc bộ đứng đầu vào cuối mùa giải giành được quyền tham dự vòng bảng UEFA Champions League, trong khi các câu lạc bộ đứng thứ ba và thứ tư sẽ giành được suất tham dự Vòng loại thứ ba của Champions League (nơi họ tiến vào vòng bảng Champions League nếu giành chiến thắng hoặc tham dự UEFA Cup nếu thua). Tuy nhiên, nếu một đội bóng Anh vô địch Champions League, nhưng kết thúc ngoài top bốn, thì họ sẽ giành được suất tham dự Champions League cuối cùng thay vì câu lạc bộ đứng thứ tư, đội bóng xếp thứ tư trên bảng xếp hạng phải bằng lòng với một suất tham dự UEFA Cup. Trường hợp này có thể xảy ra với ArsenalTottenham Hotspur nhưng Arsenal đã đánh bại Spurs để giành vị trí thứ tư ở vòng đấu cuối cùng của mùa giải trước khi để thua 1-2 trước FC Barcelona trong trận chung kết của UEFA Champions League.[4]

Câu lạc bộ đứng thứ năm luôn giành được một suất tham dự UEFA Cup. Đội vô địch FA Cup cũng giành được một suất tham dự UEFA Cup. Nếu họ đã đủ điều kiện tham dự giải đấu châu Âu theo vị trí trên bảng xếp hạng hoặc giành chiến thắng tại League Cup, thì đội á quân FA Cup sẽ có suất tham dự UEFA Cup. Nếu đội á quân cũng đã đủ điều kiện, thì đội vô địch FA Cup nhưng chưa đủ điều kiện tham dự châu Âu (thường là vị trí thứ sáu) sẽ được trao suất tham dự UEFA Cup. Mùa giải này, trận chung kết FA Cup có sự góp mặt của LiverpoolWest Ham United. Vì Liverpool đứng thứ ba nên họ đã chắc chắn có một suất tham dự vòng loại Champions League, điều này có nghĩa là West Ham đã nhận được suất tham dự UEFA Cup của đội vô địch FA Cup.

Đội vô địch League Cup cũng đủ điều kiện tham dự UEFA Cup. Nếu họ đã đủ điều kiện tham dự giải đấu châu Âu thông qua vị trí trên bảng xếp hạng giải vô địch quốc gia thì suất tham dự của họ, không giống như FA Cup, không được trao cho đội á quân, mà thay vào đó là đội có thứ hạng cao ở giải vô địch quốc gia nhưng chưa đủ điều kiện tham dự cúp châu Âu. Đội vô địch League Cup Manchester United đứng thứ hai, khiến họ được vào thẳng vòng bảng Champions League. Điều này có nghĩa là câu lạc bộ đứng thứ sáu, Blackburn Rovers, đủ điều kiện tham dự UEFA Cup. Các đội xếp ngay sau các suất tham dự UEFA Cup sẽ tham dự UEFA Intertoto Cup, điều đó có nghĩa là nếu đội Newcastle United mùa giải này giành chiến thắng trong trận đấu 2 lượt đi và về thì họ sẽ giành được một suất vào vòng loại của UEFA Cup.

Mùa giải 2005-06 cũng là mùa giải cuối cùng thi đấu bóng đá chuyên nghiệp của hai trong số những cầu thủ thành công nhất của bóng đá Anh, Alan Shearer (chơi lần cuối cho Newcastle United) và Dennis Bergkamp (chơi lần cuối cho Arsenal).

Các đội bóng

[sửa | sửa mã nguồn]

20 đội đã tham gia giải đấu – 17 đội đứng đầu từ mùa giải trước và ba đội thăng hạng từ Championship. Các đội thăng hạng là Sunderland, Wigan AthleticWest Ham United. Sunderland và West Ham United đã trở lại hạng đấu cao nhất sau 2 năm vắng bóng, trong khi Wigan Athletic lần đầu tiên trong lịch sử chơi ở hạng đấu cao nhất. Họ thay thế Crystal Palace, Norwich City (cả hai đội đều xuống hạng Championship sau một mùa giải) và Southampton (kết thúc 27 năm chơi ở hạng đấu cao nhất).

Sân vận động và địa điểm

[sửa | sửa mã nguồn]
Các câu lạc bộ bóng đá Ngoại hạng Anh tại Greater London
Các câu lạc bộ bóng đá Ngoại hạng Anh Greater Manchester
Các câu lạc bộ bóng đá Premier League vùng West Midlands
Câu lạc bộ Địa điểm Sân vận động Sức chứa
Arsenal London (Highbury) Arsenal Stadium[a] 38,419
Aston Villa Birmingham (Aston) Villa Park 42,553
Birmingham City Birmingham (Bordesley) St Andrew's 30,079
Blackburn Rovers Blackburn Ewood Park 31,367
Bolton Wanderers Bolton Reebok Stadium 28,723
Charlton Athletic London (Charlton) The Valley 27,111
Chelsea London (Fulham) Stamford Bridge 42,360
Everton Liverpool (Walton) Goodison Park 40,569
Fulham London (Fulham) Craven Cottage 24,600
Liverpool Liverpool (Anfield) Anfield 45,276
Manchester City Manchester (Bradford) City of Manchester Stadium 48,000
Manchester United Manchester (Old Trafford) Old Trafford 68,217
Middlesbrough Middlesbrough Riverside Stadium 35,049
Newcastle United Newcastle upon Tyne St James' Park 52,387
Portsmouth Portsmouth Fratton Park 20,220
Sunderland Sunderland [[Sân vận động Ánh Sáng]] 49,000
Tottenham Hotspur London (Tottenham) White Hart Lane 36,240
West Bromwich Albion West Bromwich The Hawthorns 26,484
West Ham United London (Upton Park) Boleyn Ground 35,146
Wigan Athletic Wigan JJB Stadium 25,138
  1. ^ Đây là mùa giải cuối cùng của Arsenal tại sân nhà lâu năm của họ là Sân vận động Arsenal. Pháo thủ đã khai trương Sân vận động Emirates có sức chứa 60.000 chỗ ngồi vào mùa hè năm 2006.[5]

Nhân sự và dụng cụ thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ Huấn luyện viên Đội trưởng Nhà sản xuất dụng cụ thi đấu Nhà tài trợ áo đấu
Arsenal Pháp Arsène Wenger Pháp Thierry Henry Nike O2
Aston Villa Cộng hòa Ireland David O'Leary Thụy Điển Olof Mellberg Hummel DWS Investments
Birmingham City Anh Steve Bruce Cộng hòa Ireland Kenny Cunningham Lonsdale Flybe
Blackburn Rovers Wales Mark Hughes New Zealand Ryan Nelsen Lonsdale Lonsdale
Bolton Wanderers Anh Sam Allardyce Anh Kevin Nolan Reebok Reebok
Charlton Athletic Anh Alan Curbishley Cộng hòa Ireland Matt Holland Joma All:Sports[6]
Llanera
Chelsea Bồ Đào Nha José Mourinho Anh John Terry Umbro Samsung Mobile
Everton Scotland David Moyes Scotland David Weir Umbro Chang
Fulham Wales Chris Coleman Bồ Đào Nha Luís Boa Morte Puma Pipex
Liverpool Tây Ban Nha Rafael Benítez Anh Steven Gerrard Reebok Carlsberg
Manchester City Anh Stuart Pearce Pháp Sylvain Distin Reebok Thomas Cook
Manchester United Scotland Sir Alex Ferguson Anh Gary Neville Nike Vodafone
Middlesbrough Anh Steve McClaren Anh Gareth Southgate Erreà 888.com
Newcastle United Anh Glenn Roeder Anh Alan Shearer Adidas Northern Rock
Portsmouth Anh Harry Redknapp Serbia và Montenegro Dejan Stefanović Jako OKI Printing Solution
Sunderland Anh Kevin Ball (tạm quyền) Cộng hòa Ireland Gary Breen Lonsdale Reg Vardy
Tottenham Hotspur Hà Lan Martin Jol Anh Ledley King Kappa Thomson Holidays
West Bromwich Albion Anh Bryan Robson Anh Kevin Campbell Diadora T-Mobile
West Ham United Anh Alan Pardew Anh Nigel Reo-Coker Reebok JobServe
Wigan Athletic Anh Paul Jewell Hà Lan Arjan de Zeeuw JJB JJB

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
VT Đội ST T H B BT BB HS Đ Giành quyền tham dự
hoặc xuống hạng
1 Chelsea (C) 38 29 4 5 72 22 +50 91 Điều kiện tham dự Vòng bảng Champions League
2 Manchester United 38 25 8 5 72 34 +38 83
3 Liverpool 38 25 7 6 57 25 +32 82 Điều kiện tham dự Vòng loại thứ ba Champions League
4 Arsenal 38 20 7 11 68 31 +37 67
5 Tottenham Hotspur 38 18 11 9 53 38 +15 65 Điều kiện tham dự Vòng đầu tiên UEFA Cup[a]
6 Blackburn Rovers 38 19 6 13 51 42 +9 63
7 Newcastle United 38 17 7 14 47 42 +5 58 Điều kiện tham dự Vòng 3 Intertoto Cup
8 Bolton Wanderers 38 15 11 12 49 41 +8 56
9 West Ham United 38 16 7 15 52 55 −3 55 Điều kiện tham dự Vòng đầu tiên UEFA Cup[b]
10 Wigan Athletic 38 15 6 17 45 52 −7 51
11 Everton 38 14 8 16 34 49 −15 50
12 Fulham 38 14 6 18 48 58 −10 48
13 Charlton Athletic 38 13 8 17 41 55 −14 47
14 Middlesbrough 38 12 9 17 48 58 −10 45
15 Manchester City 38 13 4 21 43 48 −5 43
16 Aston Villa 38 10 12 16 42 55 −13 42
17 Portsmouth 38 10 8 20 37 62 −25 38
18 Birmingham City (R) 38 8 10 20 28 50 −22 34 Xuống chơ tại Football League Championship
19 West Bromwich Albion (R) 38 7 9 22 31 58 −27 30
20 Sunderland (R) 38 3 6 29 26 69 −43 15
Nguồn: Premier League
Quy tắc xếp hạng: 1) điểm; 2) hiệu số bàn thắng-bại; 3) số bàn thắng ghi được.
(C) Vô địch; (R) Xuống hạng
Ghi chú:
  1. ^ Vì Manchester United đủ điều kiện tham dự Champions League, nên suất tham dự UEFA Cup với tư cách là nhà vô địch Cúp Liên đoàn Anh 2005-06 được trao cho cho câu lạc bộ Blackburn Rovers với tư cách là đội có thứ hạng cao nhất nhưng chưa đủ điều kiện tham dự các cúp châu Âu.
  2. ^ Vì Liverpool đã đủ điều kiện tham dự Champions League nên suất tham dự UEFA Cup của họ với tư cách là nhà vô địch Cúp FA 2005–06 đã thuộc về West Ham, đội là á quân Cúp FA.

Vua phá lưới

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Bàn thắng
1 Pháp Thierry Henry Arsenal 27
2 Hà Lan Ruud van Nistelrooy Manchester United 21
3 Anh Darren Bent Charlton Athletic 18
4 Cộng hòa Ireland Robbie Keane Tottenham Hotspur 16
Anh Frank Lampard Chelsea 16
Anh Wayne Rooney Manchester United 16
7 Anh Marlon Harewood West Ham United 14
8 Wales Craig Bellamy Blackburn Rovers 13
Nigeria Yakubu Middlesbrough 13
10 Sénégal Henri Camara Wigan Athletic 12
Bờ Biển Ngà Didier Drogba Chelsea 12

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d "English Premier League 2005–06". statto.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ a b Lawrence, Amy (ngày 29 tháng 4 năm 2006). "Chelsea shoulder to shoulder as they seal back-to-back titles". The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2023.
  3. ^ a b "CNN.com - Chelsea retain the title in style - Apr 29, 2006". edition.cnn.com. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2023.
  4. ^ Culf, Andrew; McCarra, Kevin (ngày 8 tháng 5 năm 2006). "Police called in as Spurs hopes dashed after food poisoning". The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2023.
  5. ^ "Henry delight at Highbury finale". BBC News. ngày 7 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2011.
  6. ^ Charlton đã thay đổi nhà tài trợ trong mùa giải vì nhà tài trợ trước đó là All:Sports đã phá sản.