El Clásico
Địa điểm | Tây Ban Nha |
---|---|
Đội | Barcelona Real Madrid |
Gặp nhau lần đầu | FC Barcelona 3–1 Madrid FC 1902 Copa de la Coronación (13 tháng 5 năm 1902) |
Gặp nhau gần nhất | Real Madrid CF 0-4 FC Barcelona La Liga (27 tháng 10 năm 2024) |
Sân vận động | Camp Nou (Barcelona) Santiago Bernabéu (Real Madrid) |
Thống kê | |
Số lần gặp nhau | Trận đấu chính thức: 255 Trận đấu giao hữu: 42 Tổng cộng: 297 |
Thắng nhiều nhất | Trận đấu chính thức: Real Madrid (103) Trận đấu giao hữu: Barcelona (24) Tổng cộng: Barcelona (123) |
Cầu thủ tham dự nhiều nhất | Sergio Busquets (48) |
Ghi bàn hàng đầu | Lionel Messi (26)[note 1] |
Trận thắng cách biệt nhất | Real Madrid 11–1 Barcelona Copa del Rey (19 tháng 6 năm 1943) |
Chuỗi thắng dài nhất | Real Madrid (7) (1962–1965) |
El Clásico (cũng được viết thường;[1] phát âm tiếng Tây Ban Nha: [el ˈklasiko]; tiếng Catalunya: El Clàssic,[2] phát âm: [əl ˈklasik]) là tên được đặt cho bất kỳ trận đấu bóng đá nào giữa các câu lạc bộ kình địch FC Barcelona và Real Madrid. Ban đầu đề cập đến các cuộc thi được tổ chức ở giải vô địch Tây Ban Nha, thuật ngữ này hiện bao gồm mọi trận đấu giữa các câu lạc bộ, chẳng hạn như các trận đấu ở UEFA Champions League, Supercopa de España and Copa del Rey. Nó được coi là một trong những trận bóng đá câu lạc bộ lớn nhất trên thế giới và là một trong những sự kiện thể thao hàng năm được xem nhiều nhất.[3][4][5][6] Một trận đấu được biết đến với cường độ cao, nó có các màn ăn mừng bàn thắng đáng nhớ của cả hai đội, thường kéo theo sự chế giễu từ cả hai phía.[7]
Trận đấu mang ý nghĩa chính trị quy mô lớn, vì Madrid là thủ đô và thành phố lớn nhất của Tây Ban Nha còn Barcelona là thủ đô và thành phố lớn nhất của cộng đồng tự trị Catalunya, nơi có phong trào đòi độc lập đang diễn ra. Hai câu lạc bộ thường được xác định là có lập trường chính trị đối lập nhau, với Real Madrid được coi là đại diện cho chủ nghĩa dân tộc Tây Ban Nha và Barcelona được coi là đại diện cho chủ nghĩa dân tộc của xứ Catalunya.[8] Hai câu lạc bộ nằm trong số những câu lạc bộ bóng đá giàu có và thành công nhất trên thế giới; năm 2014 Forbes xếp Barcelona và Real Madrid là hai đội thể thao giá trị nhất thế giới.[4] Cả hai câu lạc bộ đều có lượng người hâm mộ toàn cầu; họ là hai đội thể thao được theo dõi nhiều nhất trên mạng xã hội.[9][10]
Real Madrid dẫn đầu về thành tích đối đầu trong các trận đấu chính thức với 102 trận thắng so với 100 của Barcelona với 52 trận hòa; Barcelona dẫn đầu trong các trận đấu triển lãm với 23 chiến thắng trước Madrid 6 với 12 trận hòa và trong tổng số trận đấu với 123 trận thắng so với 108 của Madrid với 64 trận hòa tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 5 tháng 4 năm 2023.[cần dẫn nguồn] Cùng với Athletic Bilbao, họ là những câu lạc bộ duy nhất ở La Liga chưa từng xuống hạng.
Cạnh tranh
[sửa | sửa mã nguồn]Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Xung đột giữa Real Madrid và Barcelona từ lâu đã vượt qua khía cạnh thể thao,[11][12] đến mức các cuộc bầu cử chủ tịch câu lạc bộ đã bị chính trị hóa mạnh mẽ.[13] Phil Ball, tác giả cuốn Morbo: The Story of Spanish Football, nói về trận đấu; "họ ghét nhau với cường độ có thể thực sự gây sốc cho người ngoài".[14]
Ngay từ những năm 1930, Barcelona "đã nổi tiếng là biểu tượng của bản sắc Catalan, trái ngược với xu hướng tập trung hóa của Madrid".[15][16] Năm 1936, khi Francisco Franco bắt đầu cuộc đảo chính chống lại Đệ nhị Cộng hòa Tây Ban Nha, chủ tịch của Barcelona, Josep Sunyol, thành viên của Đảng Cộng hòa Cánh tả Catalonia và người đại diện The Cortes, đã bị bắt và bị xử tử không bị quân đội của Franco xét xử[13] (Sunyol đang thực hiện các hoạt động chính trị của mình, đến thăm quân đội Cộng hòa ở phía bắc Madrid).[15] Trong chế độ độc tài của Miguel Primo de Rivera và đặc biệt là Francisco Franco, tất cả các ngôn ngữ và bản sắc khu vực ở Tây Ban Nha đều bị phản đối và hạn chế. Do đó, hầu hết công dân của Barcelona đều phản đối mạnh mẽ chế độ giống như phát xít. Trong giai đoạn này, Barcelona đã đạt được phương châm Més que un club (tiếng Việt: Hơn cả một câu lạc bộ) vì bị cáo buộc có mối liên hệ với chủ nghĩa dân tộc Catalunya cũng như niềm tin tiến bộ.[17]
Có một cuộc tranh cãi đang diễn ra về mức độ mà sự cai trị của Franco (1939–75) đã ảnh hưởng đến các hoạt động và kết quả trên sân của cả Barcelona và Real Madrid. Hầu hết các nhà sử học đều đồng ý rằng Franco không có đội bóng ưa thích, nhưng niềm tin theo chủ nghĩa dân tộc Tây Ban Nha của ông đã khiến ông liên kết mình với các đội lâu đời, chẳng hạn như Atlético Aviación và Madrid FC (đã lấy lại tên hoàng gia sau khi nền Cộng hòa sụp đổ). Mặt khác, ông cũng muốn CF Barcelona được đổi tên thành "đội bóng Tây Ban Nha" hơn là đội bóng xứ Catalan.[18][19] Trong những năm đầu dưới triều đại của Franco, Real Madrid thi đấu không mấy thành công, chỉ giành được hai danh hiệu Copa del Generalísimo và một Copa Eva Duarte; Barcelona đã giành ba chức vô địch quốc gia, một Copa del Generalísimo và một Copa Eva Duarte. Trong thời kỳ đó, Atlético Aviación được cho là đội được ưu tiên hơn Real Madrid. Những câu chuyện gây tranh cãi nhất trong giai đoạn này bao gồm chiến thắng 11–1 trên sân nhà của Real Madrid trước Barcelona ở Copa del Generalísimo, nơi đội bóng xứ Catalan bị cáo buộc là có hành vi đe dọa và vụ chuyển nhượng Alfredo Di Stéfano gây tranh cãi đến Real Madrid bất chấp thỏa thuận của anh ấy với Barcelona. Vụ chuyển nhượng sau này là một phần trong "cuộc cách mạng" của chủ tịch Real Madrid Santiago Bernabéu mở ra kỷ nguyên thống trị chưa từng có. Bernabéu, bản thân là một cựu chiến binh của Nội chiến, người đã chiến đấu cho lực lượng của Franco, đã chứng kiến Real Madrid không chỉ đứng đầu bóng đá Tây Ban Nha mà còn cả châu Âu, giúp tạo ra Cúp C1 châu Âu, giải đấu thực sự đầu tiên dành cho các câu lạc bộ xuất sắc nhất châu Âu. Tầm nhìn của ông đã thành hiện thực khi Real Madrid không chỉ bắt đầu giành chức vô địch liên tiếp mà còn vô địch 5 kỳ cúp châu Âu đầu tiên vào những năm 1950.[20] Những sự kiện này có tác động sâu sắc đến bóng đá Tây Ban Nha và ảnh hưởng đến thái độ của Franco. Theo các nhà sử học, trong thời gian này, ông nhận ra tầm quan trọng của Real Madrid đối với hình ảnh quốc tế của chế độ ông, và câu lạc bộ đã trở thành đội bóng ưa thích của ông cho đến khi ông qua đời. Fernando Maria Castiella, người từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dưới thời Franco từ năm 1957 đến năm 1969, lưu ý rằng "[Real Madrid] là đại sứ quán tốt nhất mà chúng tôi từng có." Franco qua đời năm 1975, và quá trình chuyển đổi dân chủ của Tây Ban Nha diễn ra ngay sau đó. Dưới sự dẫn dắt của ông, Real Madrid đã giành được 14 chức vô địch quốc gia, 6 danh hiệu Copa del Generalísimo, 1 Copa Eva Duarte, 6 Cúp C1 châu Âu, 2 Latin Cup và 1 Cúp liên lục địa. Trong cùng thời gian, Barcelona đã giành được 8 chức vô địch quốc gia, 9 danh hiệu Copa del Generalísimo, 3 danh hiệu Copa Eva Duarte , 3 Inter-Cities Fairs Cup và 2 Latin Cup.[18][19]
Hình ảnh của cả hai câu lạc bộ càng bị ảnh hưởng bởi việc thành lập các nhóm ultras, một số nhóm đã trở thành hooligan. Năm 1980, Ultras Sur được thành lập với tư cách là một nhóm cực hữu của Real Madrid, tiếp theo là vào năm 1981 với sự thành lập của nhóm cực hữu ban đầu là cực tả và sau đó là cực hữu, nhóm Boixos Nois của Barcelona. Cả hai nhóm đều được biết đến với những hành vi bạo lực của họ,[13][21][22] và một trong những phe xung đột nhất của những người ủng hộ Barcelona, Casuals, đã trở thành một tổ chức tội phạm chính thức.[23]
Với nhiều người, Barcelona vẫn bị coi là "câu lạc bộ nổi loạn", hay cực thay thế cho "chủ nghĩa bảo thủ của Real Madrid".[24][25] Theo các cuộc thăm dò do CIS (Centro de Investigaciones Sociológicas) công bố, Real Madrid là đội bóng yêu thích của hầu hết người dân Tây Ban Nha, trong khi Barcelona đứng ở vị trí thứ hai. Tại Catalonia, các lực lượng thuộc mọi thành phần chính trị đang ủng hộ Barcelona một cách áp đảo. Tuy nhiên, sự ủng hộ của câu lạc bộ blaugrana vượt xa khỏi khu vực đó, thu được kết quả tốt nhất trong giới trẻ, những người ủng hộ cấu trúc liên bang của Tây Ban Nha và những công dân có tư tưởng cánh tả, trái ngược với những người hâm mộ Real Madrid vốn quan tâm đến chính trị. có xu hướng áp dụng quan điểm cánh hữu.[26][27]
1943 Copa del Generalísimo - vòng bán kết
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 13 tháng 6 năm 1943, Real Madrid đánh bại Barcelona với tỷ số 11–1 trên sân nhà trong trận lượt về bán kết Copa del Generalísimo, Copa del Rey đã được đổi tên để vinh danh Tướng Franco.[28] Trận lượt đi, diễn ra trên sân vận động Les Corts của Barcelona ở Catalonia, đã kết thúc với chiến thắng 3–0. Madrid phàn nàn về tất cả ba bàn thắng mà trọng tài Fombona Fernández đã công nhận cho Barcelona,[29] với các cổ động viên nhà cũng huýt sáo khắp Madrid, người mà họ cáo buộc sử dụng chiến thuật thô bạo, và Fombona đã cho phép họ. Một chiến dịch bắt đầu ở Madrid. Cầu thủ Josep Valle của Barcelona nhớ lại: "Nhân viên phụ trách báo chí của tờ báo DND và ABC đã viết đủ thứ chuyện dối trá, thực sự khủng khiếp, làm mưa làm gió với các CĐV Madrid hơn bao giờ hết". Cựu thủ môn của Real Madrid, Eduardo Teus, người thừa nhận rằng Madrid "trên hết đã chơi hết mình", đã viết trên một tờ báo: "chính mặt sân đã khiến Madrid để thủng lưới hai trong ba bàn thua, những bàn thua hoàn toàn không công bằng".[30]
Các cổ động viên Barcelona đã bị cấm đến Madrid du lịch. Real Madrid đã đưa ra một tuyên bố sau trận đấu mà cựu chủ tịch câu lạc bộ (1985–1995) Ramón Mendoza giải thích, "Thông điệp được gửi đến rằng những người hâm mộ muốn đến quán bar El Club trên Calle de la Victoria, nơi trung tâm xã hội của Madrid. Ở đó, họ được phát một chiếc còi. Những người khác đã huýt sáo trao vé cho họ. " Ngày diễn ra trận lượt về, toàn đội Barcelona đã bị xúc phạm và ném đá vào xe buýt của họ ngay khi họ rời khách sạn. Tiền đạo Mariano Gonzalvo của Barcelona nói về vụ việc, "Năm phút trước khi trận đấu bắt đầu, khu vực cấm địa của chúng tôi đã đầy tiền xu." Thủ môn của Barcelona, Lluis Miró hiếm khi tiếp cận đường biên của anh ấy — khi anh ấy làm vậy, anh ấy đã bị ném đá. Như Francisco Calvet kể câu chuyện, "Họ hét lên: Quỷ đỏ! Những người theo chủ nghĩa ly khai!... một cái chai vừa nhắm trượt Sospedra có thể sẽ giết anh ta nếu nó trúng vào anh ta. Tất cả đã được sắp đặt trước. " [31]
Real Madrid vượt lên dẫn trước 2–0 trong vòng nửa giờ. Bàn thắng thứ ba mang lại dấu ấn đuổi cầu thủ Benito García của Barcelona sau khi anh ấy thực hiện điều mà Calvet tuyên bố là "một pha bóng hoàn toàn bình thường". José Llopis Corona của Madrid nhớ lại, "Tại thời điểm đó, họ đã mất tinh thần một chút", trong khi Mur phản bác, "tại thời điểm đó, chúng tôi nghĩ: 'hãy tiếp tục, ghi bao nhiêu tùy ý'." Madrid đã ghi bàn ở các phút 31 ', 33', 35 ', 39', 43 'và 44', cũng như hai bàn thắng không được tính vì lỗi việt vị, nâng tỷ số lên 8–0. Basilo de la Morena đã bị bắt kịp với tốc độ ghi bàn. Trong bầu không khí đó và với một trọng tài muốn tránh mọi sự phức tạp, thì con người không thể chơi được... Nếu các azulgranas đã chơi tệ, thực sự tệ thì bảng điểm vẫn chưa đạt đến con số thiên văn đó. Vấn đề là họ đã không chơi gì cả. " Cả hai câu lạc bộ đã bị phạt 2.500 pesetas bởi Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và mặc dù Barcelona đã kháng cáo, điều đó không có gì khác biệt. Piñeyro từ chức để phản đối, phàn nàn về "một chiến dịch mà báo chí đã chạy chống lại Barcelona trong một tuần và đỉnh điểm là ngày đáng xấu hổ tại Chamartín".[32][33][33]
Báo cáo trận đấu trên tờ La Prensa mô tả bàn thắng duy nhất của Barcelona là "lời nhắc nhở rằng có một đội bóng ở đó biết cách chơi bóng và nếu họ không làm như vậy vào chiều hôm đó, đó hoàn toàn không phải lỗi của họ".[34] Một tờ báo khác gọi đường chấm điểm là "vô lý vì nó bất thường".[29] Theo cây viết bóng đá Sid Lowe, "Có rất ít đề cập về trận đấu [kể từ đó] và nó không phải là kết quả được kỷ niệm đặc biệt ở Madrid. Thật vậy, 11–1 chiếm một vị trí nổi bật hơn nhiều trong lịch sử của Barcelona. Đây là trò chơi đầu tiên hình thành việc xác định Madrid là đội của chế độ độc tài và Barcelona là nạn nhân của nó. " [29] Fernando Argila, thủ môn dự bị của Barcelona từ trận đấu, nói, "Không có sự thù hận. Không, ít nhất, cho đến trận đấu đó. " [35]
Chuyển nhượng Di Stéfano
[sửa | sửa mã nguồn]Sự cạnh tranh giữa hai đội đã gia tăng trong những năm 1950 khi các câu lạc bộ này tranh chấp việc ký hợp đồng với Alfredo Di Stéfano. Di Stéfano đã gây ấn tượng với cả Barcelona và Real Madrid khi chơi cho Los Millionarios ở Bogotá, Colombia, trong một trận đấu của các cầu thủ ở quê nhà Argentina.[36] Cả Real Madrid và Barcelona đều cố gắng ký hợp đồng với anh ấy và, do sự nhầm lẫn xuất hiện từ việc Di Stéfano chuyển đến Millonarios từ River Plate sau cuộc đình công, cả hai câu lạc bộ đều tuyên bố sở hữu đăng ký của Di Stefano.[36] Sau khi có sự can thiệp của đại diện FIFA, Muñoz Calero, cả Barcelona và Real Madrid đều phải chia sẻ cầu thủ trong các mùa giải luân phiên. Vị chủ tịch bẽ bàng của Barcelona đã bị ban lãnh đạo Barcelona buộc phải từ chức, ban lãnh đạo tạm quyền hủy hợp đồng với Di Stéfano.[36] Điều này đã chấm dứt cuộc đấu tranh lâu dài cho Di Stéfano, khi anh chuyển đến Real Madrid.[36]
Di Stéfano đã trở thành một phần không thể thiếu trong thành công tiếp theo của Real Madrid, khi anh ghi hai bàn trong trận đấu đầu tiên với Barcelona. Với anh ấy, Madrid đã giành được 5 chức vô địch Cúp C1 châu Âu.[37] Những năm 1960 chứng kiến sự kình địch vươn tới đấu trường châu Âu khi họ gặp nhau hai lần tại Cúp C1 châu Âu, Real Madrid vô địch năm 1960 và Barcelona vô địch năm 1961
Chuyển nhượng Luís Figo
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2000, ứng cử viên chủ tịch của Real Madrid khi đó, Florentino Pérez, đã đề nghị cho đội phó Luís Figo của Barcelona số tiền 2,4 triệu đô la để ký một thỏa thuận ràng buộc anh ta tới Madrid nếu Perez thắng cuộc bầu cử. Nếu cầu thủ phá vỡ thỏa thuận, anh ta sẽ phải trả cho Pérez 30 triệu USD tiền bồi thường. Khi người đại diện của anh ấy xác nhận thỏa thuận, Figo đã phủ nhận mọi thứ, khẳng định: "Tôi sẽ ở lại Barcelona cho dù Pérez thắng hay thua." Ông cáo buộc ứng viên chủ tịch "nói dối" và "viển vông". Anh ấy nói với các đồng đội ở Barcelona, Luis Enrique và Pep Guardiola rằng anh ấy sẽ không rời đi và họ đã truyền tải thông điệp đến đội Barcelona.[38]
Vào ngày 9 tháng 7, Sport đã thực hiện một cuộc phỏng vấn, trong đó anh ấy nói: "Tôi muốn gửi một thông điệp bình tĩnh đến các cổ động viên của Barcelona, những người mà tôi luôn dành và sẽ luôn cảm thấy tình cảm lớn lao. Tôi muốn đảm bảo với họ rằng Luís Figo chắc chắn sẽ có mặt ở Camp Nou vào ngày 24 để bắt đầu mùa giải mới... Tôi đã không ký hợp đồng trước với một ứng cử viên tổng thống ở Real Madrid. Không. Tôi không quá điên khi làm một việc như vậy. " [38]
Cách duy nhất Barcelona có thể ngăn cản việc Figo chuyển đến Real Madrid là trả điều khoản phạt 30 triệu đôla. Điều đó có nghĩa là phải trả phí chuyển nhượng cao thứ năm trong lịch sử để ký hợp đồng với cầu thủ của họ. Chủ tịch mới của Barcelona, Joan Gaspart, đã gọi điện cho giới truyền thông và nói với họ: "Hôm nay, Figo cho tôi ấn tượng rằng anh ấy muốn làm hai điều: giàu hơn và ở lại Barça." Chỉ một trong số chúng đã xảy ra. Ngày hôm sau, 24 tháng 7, Figo có mặt tại Madrid và được Alfredo Di Stéfano trao chiếc áo đấu mới. Điều khoản mua lại của anh ấy được đặt ở mức 180 triệu đô la. Gaspart sau đó thừa nhận, "Động thái của Figo đã phá hủy chúng tôi." [39]
Trong lần trở lại Camp Nou trong màu áo Real Madrid, các biểu ngữ có chữ "Judas", "Scum" và "Mercenary" đã được treo khắp sân vận động. Hàng nghìn tờ 10.000 peseta giả đã được in và tô điểm bằng hình ảnh của Figo, nằm trong số những quả cam, chai lọ, bật lửa, thậm chí một vài chiếc điện thoại di động đã được ném vào anh.[40] Trong mùa giải thứ ba của Figo với Real Madrid, Clásico năm 2002 tại Camp Nou đã tạo ra một trong những hình ảnh của sự thù hận. Figo bị chế nhạo không thương tiếc trong suốt trận đấu. Tên lửa bằng đồng xu, một con dao, một chai rượu whisky, rơi ào ào từ khán đài, hầu hết là từ những khu vực đông dân cư của Boixos Nois nơi anh ta đang đứng sút phạt góc. Trong số các đồ ném vào Figo có một cái đầu lợn.[41][42]
Các vấn đề gần đây
[sửa | sửa mã nguồn]Trong suốt ba thập kỷ qua, sự cạnh tranh của El Clásico đã được dâng cao bởi truyền thống Pasillo Tây Ban Nha hiện đại, tại đó một đội được trao cho người bảo vệ danh dự của đội kia, sau khi đội kia vô địch La Liga trước khi El Clásico diễn ra. Điều này đã xảy ra trong ba lần. Đầu tiên, trong trận El Clásico diễn ra vào ngày 30 tháng 4 năm 1988, nơi Real Madrid giành chức vô địch ở vòng đấu trước. Sau đó, ba năm sau, khi Barcelona giành chức vô địch hai vòng trước El Clásico vào ngày 8 tháng 6 năm 1991.[43] Pasillo cuối cùng, và gần đây nhất, diễn ra vào ngày 7 tháng 5 năm 2008, và lần này Real Madrid đã giành chức vô địch.[44] Vào tháng 5 năm 2018, Real Madrid đã từ chối trình diễn Pasillo cho Barcelona mặc dù sau đó đã kết thúc chức vô địch một vòng trước trận đấu của họ.[45]
Hai đội gặp lại nhau trong trận bán kết UEFA Champions League năm 2002, khi Real Madrid thắng Barcelona 2–0 tại sân khách và hòa 1–1 tại Madrid, với chiến thắng chung cuộc 3–1 dành cho Madrid. Trận đấu được truyền thông Tây Ban Nha mệnh danh là "Trận đấu của thế kỷ".[46]
Trong khi El Clásico được coi là một trong những cuộc so tài khốc liệt nhất của bóng đá thế giới, hiếm có khoảnh khắc nào người hâm mộ lại tỏ ra khen ngợi một cầu thủ của đội đối phương. Năm 1980, Laurie Cunningham là cầu thủ Real Madrid đầu tiên nhận được tràng pháo tay từ các CĐV Barcelona trên sân Camp Nou; Sau khi chơi xuất sắc trong suốt trận đấu, và cùng Madrid giành chiến thắng 2–0, Cunningham rời sân trong sự hoan nghênh nhiệt liệt của người dân địa phương.[47][48] Vào ngày 26 tháng 6 năm 1983, trong trận lượt về của trận chung kết Copa de la Liga tại Santiago Bernabéu ở Madrid, sau khi lừa bóng qua thủ môn Real Madrid, ngôi sao của Barcelona, Diego Maradona chạy về phía khung thành trống trước khi dừng lại ngay khi hậu vệ của Madrid lao vào. Một nỗ lực cản phá cú sút và đưa bóng đi chệch cột dọc, trước khi Maradona dứt điểm thành công.[47] Phong độ ghi bàn của Maradona khiến nhiều cổ động viên Madrid bên trong sân vận động bắt đầu vỗ tay.[47][49] Vào tháng 11 năm 2005, Ronaldinho trở thành cầu thủ Barcelona thứ hai nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt từ người hâm mộ Madrid tại Santiago Bernabéu.[47] Sau khi lừa bóng qua hàng thủ Madrid hai lần để ghi hai bàn trong chiến thắng 3–0, người hâm mộ Madrid đã dành sự tôn kính cho màn trình diễn của anh ấy bằng một tràng pháo tay.[50][51] Vào ngày 21 tháng 11 năm 2015, Andrés Iniesta trở thành cầu thủ thứ ba của Barcelona nhận được tràng pháo tay từ người hâm mộ Real Madrid trong khi anh bị thay ra trong trận thắng 4–0 trên sân khách, và Iniesta ghi bàn thứ ba cho Barça. Khi đó Iniesta đã là một nhân vật nổi tiếng khắp Tây Ban Nha khi ghi bàn thắng cho đội tuyển quốc gia vô địch World Cup năm 2010.[52]
Một cuộc khảo sát năm 2007 của Centro de Investigaciones Sociológicas cho thấy 32% dân số Tây Ban Nha ủng hộ Real Madrid, trong khi 25% ủng hộ Barcelona. Ở vị trí thứ ba là Valencia, với 5%.[53] Theo một cuộc thăm dò của Ikerfel vào năm 2011, Barcelona là đội bóng được yêu thích nhất ở Tây Ban Nha với 44% sự ưu ái, trong khi Real Madrid đứng thứ hai với 37%. Atlético Madrid, Valencia và Athletic Bilbao hoàn thành top 5.[54]
Cả hai câu lạc bộ đều có những người hâm mộ trên khắp thế giới: họ là hai đội thể thao được theo dõi nhiều nhất trên mạng xã hội — trên Facebook, tính đến tháng 7 năm 2018, Real Madrid có 107 triệu người hâm mộ, còn Barcelona có 103 triệu người hâm mộ. Trên Instagram, Real Madrid có 60 triệu người theo dõi, Barcelona có 57 triệu người theo dõi.[55][56]
Sự cạnh tranh trở nên gay gắt hơn vào năm 2011, khi trận chung kết Copa Del Rey và cuộc gặp của hai đội ở UEFA Champions League, Barcelona và Real Madrid dự kiến gặp nhau bốn lần trong 18 ngày. Một số cáo buộc về hành vi phi thể thao từ cả hai đội và một cuộc khẩu chiến đã nổ ra trong suốt các trận đấu, trong đó có bốn thẻ đỏ. Huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha Vicente del Bosque tuyên bố rằng ông "lo ngại" rằng do sự thù hận gia tăng giữa hai câu lạc bộ, điều này có thể gây ra xích mích trong đội tuyển Tây Ban Nha.[57]
Trong những năm gần đây, kỳ phùng địch thủ được "gói gọn" bởi sự cạnh tranh giữa Cristiano Ronaldo và Lionel Messi.[58] Sau bản hợp đồng ngôi sao của Neymar và Luis Suárez đến Barcelona, Gareth Bale và Karim Benzema đến Madrid, sự cạnh tranh đã được mở rộng thành cuộc chiến của bộ ba tấn công của câu lạc bộ, BBC (Bale, Benzema, Cristiano) chống lại MSN (Messi, Suárez, Neymar).[59] Ronaldo rời Real Madrid để đến Juventus vào năm 2018, và trong tuần trước cuộc gặp đầu tiên của các đội tại La Liga 2018–19, Messi dính chấn thương cánh tay khiến anh không thể thi đấu. Đây sẽ là lần đầu tiên kể từ năm 2007, Clásico không có sự xuất hiện của cả hai cầu thủ, với một số phương tiện truyền thông mô tả đây là 'sự kết thúc của một kỷ nguyên'.[60][61][62] Khoảng thời gian dài của Iniesta tại Barcelona cũng đã kết thúc sau khi chơi trong 38 cuộc đụng độ từ tháng 11 năm 2004 đến tháng 5 năm 2018.[63] Barcelona giành chiến thắng với tỷ số 5–1.[64]
Một trận đấu nổi tiếng về cường độ và sự vô kỷ luật, nó cũng có những màn ăn mừng bàn thắng đáng nhớ của cả hai đội, thường liên quan đến việc chế nhạo đối thủ.[65] Vào tháng 10 năm 1999, tiền đạo Raúl của Real Madrid đã khiến 100.000 cổ động viên Barcelona tại Camp Nou phải câm lặng khi ghi bàn trước khi ăn mừng bằng cách đặt một ngón tay lên môi như thể bảo khán giả hãy im lặng.[65][66] Năm 2009, đội trưởng của Barcelona, Carles Puyol, đã hôn chiếc băng đội trưởng của đội bóng xứ Catalan trước những người hâm mộ Madrid tại sân Bernabéu.[65] Cristiano Ronaldo đã hai lần ra hiệu cho đám đông thù địch "bình tĩnh" sau khi ghi bàn vào lưới Barcelona tại Nou Camp vào năm 2012 và 2016.[65] Vào tháng 4 năm 2017, Messi đã ăn mừng chiến thắng ở phút thứ 93 của anh ấy cho Barcelona trước Real Madrid tại Bernabéu bằng cách cởi áo đấu Barcelona của anh ấy và giơ nó trước những người hâm mộ Real Madrid - với tên và số của anh ấy đối mặt với họ.[65]
Siêu kinh điển nữ
[sửa | sửa mã nguồn]Kỳ phùng địch thủ
[sửa | sửa mã nguồn]László Kubala và Alfredo Di Stéfano
[sửa | sửa mã nguồn]Cristiano Ronaldo và Lionel Messi
[sửa | sửa mã nguồn]Thống kê
[sửa | sửa mã nguồn]Những kỷ lục
[sửa | sửa mã nguồn]- Các trận đấu giao hữu không được bao gồm trong các hồ sơ sau trừ khi có ghi chú khác.
Kết quả
[sửa | sửa mã nguồn]Những trận thắng đậm nhất (hơn 5 bàn thắng)
[sửa | sửa mã nguồn]Khoảng cách | Kết quả | Ngày | Giải đấu |
---|---|---|---|
10 | Real Madrid 11–1 Barcelona | 19 June 1943 | Copa del Rey |
6 | Real Madrid 8–2 Barcelona | 3 February 1935 | La Liga |
5 | Barcelona 7–2 Real Madrid | 24 September 1950 | |
Barcelona 6–1 Real Madrid | 19 May 1957 | Copa del Rey | |
Real Madrid 6–1 Barcelona | 18 September 1949 | La Liga | |
Barcelona 5–0 Real Madrid | 21 April 1935 | ||
Barcelona 5–0 Real Madrid | 25 March 1945 | ||
Real Madrid 5–0 Barcelona | 5 October 1953 | ||
Real Madrid 0–5 Barcelona | 17 February 1974 | ||
Barcelona 5–0 Real Madrid | 8 January 1994 | ||
Real Madrid 6–2 Barcelona | 7 January 2013 | ||
Barcelona 5–0 Real Madrid | 29 November 2010 |
Nhiều bàn thắng nhất trong một trận đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Số bàn thắng | Kết quả | Ngày | Giải đấu |
---|---|---|---|
12 | Real Madrid 6–6 Barcelona | 13 April 1916 | Copa del Rey |
Real Madrid 11–1 Barcelona | 13 June 1943 | ||
10 | Real Madrid 8–2 Barcelona | 3 February 1935 | La Liga |
Barcelona 5–5 Real Madrid | 10 January 1943 | ||
9 | Barcelona 7–2 Real Madrid | 24 September 1950 | |
8 | Barcelona 3–5 Real Madrid | 4 December 1960 | |
Real Madrid 2–6 Barcelona | 2 May 2009 |
Những chuỗi dài nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều trận thắng liên tiếp nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Câu lạc bộ | Giai đoạn |
---|---|---|
7 | Real Madrid | 22 April 1962 – 28 February 1965 |
5 | Barcelona | 13 December 2008 – 29 November 2010 |
5 | Real Madrid | 1 March 2020 – 20 March 2022 |
Nhiều trận hòa liên tiếp nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Giai đoạn |
---|---|
3 | 11 September 1991 – 7 March 1992 |
3 | 1 May 2002 – 20 April 2003 |
Nhiều trận liên tiếp không hòa
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Giai đoạn |
---|---|
16 | 25 January 1948 – 21 November 1954 |
15 | 23 November 1960 – 19 March 1967 |
12 | 4 December 1977 – 26 March 1983 |
11 | 19 May 1957 – 27 April 1960 |
11 | 1 March 2020 – 5 April 2023 |
9 | 5 March 1933 – 28 January 1940 |
Chuỗi trận bất bại dài nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Câu lạc bộ | Giai đoạn |
---|---|---|
8 | Real Madrid | 3 March 2001 – 6 December 2003 |
7 | Real Madrid | 31 January 1932 – 3 February 1935 |
7 | Real Madrid | 22 April 1962 – 18 February 1965 |
7 | Barcelona | 27 April 2011 – 25 January 2012 |
7 | Barcelona | 23 December 2017 – 18 December 2019 |
Chuỗi trận bất bại dài nhất trong giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Câu lạc bộ | Giai đoạn |
---|---|---|
7 (5 thắng) |
Real Madrid | 31 January 1932 – 3 February 1935 |
7 (5 thắng) |
Barcelona | 13 December 2008 – 10 December 2011 |
7 (4 thắng) |
Barcelona | 3 December 2016 – 18 December 2019 |
6 (6 thắng) |
Real Madrid | 30 September 1962 – 28 February 1965 |
6 (4 thắng) |
Barcelona | 11 May 1997 – 13 October 1999 |
6 (3 thắng) |
Barcelona | 28 November 1971 – 17 February 1974 |
5 (4 thắng) |
Barcelona | 30 March 1947 – 15 January 1949 |
5 (4 thắng) |
Real Madrid | 18 December 2019 – 24 October 2021 |
5 (3 thắng) |
Barcelona | 11 May 1975 – 30 January 1977 |
5 (3 thắng) |
Real Madrid | 1 April 2006 – 7 May 2008 |
Nhiều trận liên tiếp không thủng lưới
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Câu lạc bộ | Giai đoạn |
---|---|---|
5 | Barcelona | 3 April 1972 – 17 February 1974 |
3 | Real Madrid | 29 June 1974 – 11 May 1975 |
3 | Barcelona | 29 November 2009 – 29 November 2010 |
3 | Barcelona | 27 February 2019 – 18 December 2019 |
Ghi bàn nhiều trận liên tiếp nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Trận | Câu lạc bộ | Giai đoạn |
---|---|---|
24 | Barcelona | 27 April 2011 – 13 August 2017 |
21 | Barcelona | 30 November 1980 – 31 January 1987 |
18 | Real Madrid | 3 May 2011 – 22 March 2015 |
13 | Real Madrid | 1 December 1946 – 23 November 1952 |
13 | Real Madrid | 15 February 1959 – 21 January 1962 |
13 | Real Madrid | 22 April 1962 – 9 April 1968 |
12 | Real Madrid | 5 December 1990 – 16 December 1993 |
10 | Barcelona | 11 September 1991 – 7 May 1994 |
10 | Barcelona | 30 January 1997 – 13 October 1999 |
Những kỷ lục khác
[sửa | sửa mã nguồn]Phần này có thể chứa nghiên cứu chưa được công bố. (tháng 3 năm 2023) |
- Kết quả phổ biến nhất: 2–1 (46 lần)
- Kết quả không phổ biến nhất: 11–1, 8–2, 7–2, 6–6, 6–2, 5–5 and 5–3 (mỗi người một lần)
- Kết quả hòa phổ biến nhất: 1–1 (25 lần)
Cầu thủ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến 5 tháng 4 năm 2023
Ghi bàn
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi bàn nhiều nhất
[sửa | sửa mã nguồn]- Những cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho Real Madrid hoặc Barcelona.
- Những con số in đậm là kỷ lục ghi bàn trong giải đấu.
- Không bao gồm các trận giao hữu.
Hạng | Cầu thủ | Câu lạc bộ | La Liga | Copa | Supercopa | League Cup | Europe | Tổng cộng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Lionel Messi | Barcelona | 18 | — | 6 | — | 2 | 26 |
2 | Alfredo Di Stéfano | Real Madrid | 14 | 2 | — | — | 2 | 18 |
Cristiano Ronaldo | Real Madrid | 9 | 5 | 4 | — | — | 18 | |
4 | Karim Benzema | Real Madrid | 8 | 4 | 4 | — | — | 16 |
5 | Raúl | Real Madrid | 11 | — | 3 | — | 1 | 15 |
6 | César | Barcelona | 12 | 2 | — | — | — | 14 |
Francisco Gento | Real Madrid | 10 | 2 | — | — | 2 | 14 | |
Ferenc Puskás | Real Madrid | 9 | 2 | — | — | 3 | 14 | |
9 | Santillana | Real Madrid | 9 | 2 | — | 1 | — | 12 |
10 | Luis Suárez | Barcelona | 9 | 2 | — | — | — | 11 |
11 | Hugo Sánchez | Real Madrid | 8 | — | 2 | — | — | 10 |
Juanito | Real Madrid | 8 | — | — | 2[note 2] | — | 10 | |
Josep Samitier | Cả 2 câu lạc bộ | 4 | 6 | — | — | — | 10 | |
14 | Estanislao Basora | Barcelona | 8 | 1 | — | — | — | 9 |
15 | Jaime Lazcano | Real Madrid | 8 | — | — | — | — | 8 |
Pahíño | Real Madrid | 8 | — | — | — | — | 8 | |
Iván Zamorano | Real Madrid | 4 | 2 | 2 | — | — | 8 | |
Sabino Barinaga | Real Madrid | 4 | 4 | — | — | — | 8 | |
Eulogio Martínez | Barcelona | 2 | 5 | — | — | 1 | 8 | |
Luis Suárez | Barcelona | 2 | 4 | — | — | 2 | 8 | |
Santiago Bernabéu | Real Madrid | — | 8 | — | — | — | 8 |
Ghi bàn liên tiếp
[sửa | sửa mã nguồn]Hạng | Câu lạc bộ | Số trận liên tiếp | Tổng số bàn trong chuỗi | Bắt đầu | Kết thúc |
---|---|---|---|---|---|
Cristiano Ronaldo | Real Madrid | 6 | 7 | Copa del Rey 2011–12 (tứ kết lượt đi) | La Liga 2012–13 (vòng 7) |
Iván Zamorano | Real Madrid | 5 | 5 | La Liga 1992–93 (vòng 20) | Supercopa de España 1993 (lượt về) |
Santiago Bernabéu | Real Madrid | 4 | 8 | Copa del Rey 1916 (bán kết lượt đi) | Copa del Rey 1916 (đá lại bán kết lượt về) |
Simón Lecue | Real Madrid | 4 | 5 | La Liga 1935–36 (vòng 7) | La Liga 1939–40 (vòng 9) |
Ronaldinho | Barcelona | 4 | 5 | La Liga 2004–05 (vòng 12) | La Liga 2005–06 (vòng 31) |
Giovanni | Barcelona | 4 | 4 | Supercopa de España 1997 (lượt đi) | La Liga 1997–98 (vòng 28) |
Ra sân nhiều nhất
[sửa | sửa mã nguồn]- Những cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho Real Madrid hoặc Barcelona.[67]
Trận | Cầu thủ | Câu lạc bộ |
---|---|---|
48 | Sergio Busquets | Barcelona |
45 | Lionel Messi | Barcelona |
Sergio Ramos | Real Madrid | |
43 | Karim Benzema | Real Madrid |
42 | Francisco Gento | Real Madrid |
Manuel Sanchís | Real Madrid | |
Xavi | Barcelona | |
40 | Gerard Piqué[68] | Barcelona |
38 | Andrés Iniesta | Barcelona |
37 | Fernando Hierro | Real Madrid |
Raúl | Real Madrid | |
Iker Casillas | Real Madrid | |
35 | Santillana | Real Madrid |
Thủ môn
[sửa | sửa mã nguồn]Giữ sạch lưới nhiều nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Câu lạc bộ | Thi đấu | Tổng cộng |
---|---|---|---|
Víctor Valdés | Barcelona | 2002–2014 | 7 |
Andoni Zubizarreta | Barcelona | 1986–1994 | 6 |
Francisco Buyo | Real Madrid | 1986–1997 | 6 |
Marc-André ter Stegen | Barcelona | 2014–present | 6 |
Iker Casillas | Real Madrid | 1999–2015 | 6 |
Giữ sạch lưới nhiều trận liên tiếp nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Câu lạc bộ | Số trận | Bất đầu | Kết thúc |
---|---|---|---|---|
Miguel Reina | Barcelona | 3 | 1971–72 La Liga (28th round) | 1972–73 La Liga (22nd round) |
Víctor Valdés | Barcelona | 3 | 2009–10 La Liga (12th round) | 2010–11 La Liga (13th round) |
Marc-André ter Stegen | Barcelona | 3 | 2018–19 Copa del Rey (semi-finals 2nd leg) | 2019–20 La Liga (10th round) |
Kiến tạo
- Kiến tạo nhiều nhất: 14 – Lionel Messi[69]
- Kiến tạo nhiều nhất trong một trận: 4 – Xavi (2 tháng 5 2009, La Liga)[70]
- Kiến tạo nhiều nhất trong một mùa giải: 5 – Lionel Messi (2011–12)
Thẻ phạt
[sửa | sửa mã nguồn]- Nhiều thẻ vàng nhất: 22 – Sergio Ramos
- Nhiều thẻ đỏ nhất: 5 – Sergio Ramos
Kỉ lục khác
[sửa | sửa mã nguồn]- Ghi bàn phạt đền nhiều nhất: 6 – Lionel Messi
- Ghi bàn đá phạt nhiều nhất: 2
- Nhiều trận thắng nhất: 23 – Sergio Busquets
- Nhiề trận thua nhất: 20 – Sergio Ramos
- Nhiều hat-trick nhất: 2
- Người ghi bàn trẻ tuổi nhất: 17 năm, 356 ngày – Alfonso Navarro, 1946–47 La Liga, 30 tháng 3 năm 1947
- Người ghi bàn lớn tuổi nhất: 37 năm, 164 ngày – Alfredo Di Stéfano, 1963–64 La Liga, 15 tháng 12 năm 1963
- Ghi bàn nhanh nhất: 21 giây – Karim Benzema, 2011–12 La Liga, 10 tháng 12 năm 2011[71][72]
- Ghi bàn bằng phạt đền nhanh nhất: 2 phút – Pirri, 1976–77 La Liga, 30 tháng 1 năm 1977
- Ghi bàn trong nhiều giải đấu nhất: 4 – Pedro (La Liga, UEFA Champions League, Copa del Rey và Supercopa de España)
- Ghi bàn trong nhiều mùa giải nhất: 11 – Paco Gento: (1954–55, 1958–59, 1959–60, 1960–61, 1961–62, 1962–63, 1963–64, 1965–66, 1967–68, 1968–69 và 1969–70)
- Ghi nhiều bàn nhất nhất trong một mùa giải: 8 – Santiago Bernabéu (1915–16)
- Ghi bàn trong nhiều sân vận động nhất: 4
- Ba cầu thủ chơi cho cả hai câu lạc bộ ở El Clásico:
Huấn luyện viên
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều trận nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Hạng | Huấn luyện viên | Câu lạc bộ | Số trận | Năm | Số trận đối đầu |
---|---|---|---|---|---|
1 | Miguel Muñoz | Real Madrid | 36 | 1960–1974 | La Liga (27) Copa del Rey (5) European Cup (4) |
2 | Johan Cruyff | Barcelona | 25 | 1988–1996 | La Liga (16) Copa del Rey (3) Supercopa de España (6) |
3 | José Mourinho | Real Madrid | 17 | 2010–2013 | La Liga (6) Copa del Rey (5) Supercopa de España (4) UEFA Champions League (2) |
4 | Pep Guardiola | Barcelona | 15 | 2008–2012 | La Liga (8) Copa del Rey (3) Supercopa de España (2) UEFA Champions League (2) |
5 | Rinus Michels | Barcelona | 13 | 1971–1975 1976–1978 |
La Liga (12) Copa del Rey (1) |
Carlo Ancelotti | Real Madrid | nay | La Liga (8) Copa del Rey (3) Supercopa de España (2) | ||
7 | Terry Venables | Barcelona | 12 | 1984–1987 | La Liga (8) Copa de la Liga (4) |
8 | Leo Beenhakker | Real Madrid | 11 | 1986–1989 1992 |
La Liga (9) Supercopa de España (2) |
Zinedine Zidane | Real Madrid | 2016–2018 2019–2021 |
La Liga (9) Supercopa de España (2) |
Nhiều trận thắng nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Hạng | Huấn luyện viên | Câu lạc bộ | Năm | Số trận thắng |
---|---|---|---|---|
1 | Miguel Muñoz | Real Madrid | 1960–1974 | 16 |
2 | Johan Cruyff | Barcelona | 1988–1996 | 9 |
Pep Guardiola | Barcelona | 2008–2012 | ||
4 | Terry Venables | Barcelona | 1984–1987 | 6 |
Zinedine Zidane | Real Madrid | 2016–2018 2019–2021 | ||
Carlo Ancelotti | Real Madrid | 2013–2015 2021–present |
Những con người của cả hai câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Cầu thủ
[sửa | sửa mã nguồn]- Barcelona đến Real Madrid
- 1902: Alfonso Albéniz[note 3]
- 1906: José Quirante[note 4]
- 1908: Charles Wallace[note 5]
- 1911: Arsenio Comamala
- 1913: Walter Rozitsky
- 1930: Ricardo Zamora (qua Espanyol)
- 1932: Josep Samitier
- 1949: Joaquín Navarro (qua Sabadell)[77]
- 1950: Alfonso Navarro[note 6]
- 1959: László Kaszás[note 7]
- 1961: Justo Tejada
- 1962: Evaristo
- 1965: Fernand Goyvaerts
- 1988: Bernd Schuster
- 1990: Luis Milla
- 1992: Nando Muñoz
- 1994: Michael Laudrup
- 1995: Miquel Soler (qua Sevilla)
- 2000: Luís Figo
- 2000: Albert Celades (qua Celta Vigo)
- 2002: Ronaldo (qua Inter Milan)
- 2007: Javier Saviola
- Real Madrid đến Barcelona
- 1905: Luciano Lizarraga[note 8]
- 1909: Enrique Normand Faurie[note 9]
- 1939: Hilario (qua Valencia)
- 1946: Josep Canal
- 1961: Chus Pereda (qua Sevilla)
- 1965: Lucien Muller
- 1980: Amador Lorenzo (qua Hércules)
- 1994: Gheorghe Hagi (qua Brescia)
- 1994: Julen Lopetegui (qua Logroñés)
- 1995: Robert Prosinečki
- 1996: Luis Enrique
- 1999: Dani García Lara (qua Mallorca)
- 2000: Alfonso Pérez (qua Real Betis)
- 2004: Samuel Eto'o (qua Mallorca)
- 2022: Marcos Alonso (qua Bolton Wanderers, Fiorentina và Chelsea)
Từ Barcelona đến Real Madrid | 17 |
Từ Barcelona đến một câu lạc bộ khác trước khi đến Real Madrid | 5 |
Tổng cộng | 22 |
Từ Real Madrid đến Barcelona | 5 |
Từ Real Madrid đến một câu lạc bộ khác trước khi đến Barcelona | 10 |
Tổng cộng | 15 |
Tổng số lần chuyển nhượng | 37 |
Huấn luyện viên
[sửa | sửa mã nguồn]Chỉ có hai huấn luyện viên từng dẫn dắt cả hai câu lạc bộ:
- Enrique Fernández
- Barcelona: 1947–1950
- Real Madrid: 1953–1954
- Radomir Antić
- Real Madrid: 1991–1992
- Barcelona: 2003
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- El Clásico (bóng rổ)
- Madrid Derby
- Derbi barceloní
- Các mối quan hệ kình địch bóng đá lớn
- Bản sắc quốc gia và khu vực ở Tây Ban Nha
- Chủ nghĩa dân tộc và thể thao
- Danh sách kình địch thể thao
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Không bao gồm bàn thắng được ghi trong trận giao hữu tại International Champions Cup 2017.
- ^ Chia sẻ kỷ lục với Diego Maradona, Jorge Valdano và Paco Clos.
- ^ Chuyển đến Madrid với mục đích học tập và gia nhập Real Madrid.[74]
- ^ Chỉ chơi cho Real Madrid trong giai đoạn 1906–1908 dưới dạng cho mượn từ Barcelona, khi ông đến sống ở Madrid với mục đích làm việc.[75]
- ^ Chỉ chơi một trận cho Real Madrid vào năm 1908 dưới dạng cho mượn từ Barcelona, một thông lệ vào thời điểm đó khi được phép triệu tập cầu thủ từ các đội khác. Sau trận đấu đó, ông tiếp tục thi đấu cho Barcelona.[76]
- ^ Ông lại chuyển từ Real Madrid sang Barcelona vào năm 1954 (qua Lleida, Osasuna và España Industrial).[78]
- ^ Chưa từng thi đấu trận chính thức nào cho Barcelona hay Real Madrid nhưng đã ký hợp đồng với cả hai đội.[79]
- ^ Chưa từng chơi một trận chính thức nào cho Barcelona.[80]
- ^ Chỉ chơi một trận cho Barcelona tại Copa del Rey 1909 dưới dạng cho mượn từ Real Madrid, một thông lệ vào thời điểm đó khi được phép triệu tập cầu thủ từ các đội khác. Sau trận đấu đó, ôngtiếp tục thi đấu cho Real Madrid.[81]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “el clásico, en minúscula y sin comillas”. fundeu.es (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 2 Tháng Ba năm 2020.
- ^ “El clàssic es jugarà dilluns”. El Punt. 18 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 31 Tháng mười hai năm 2010. Truy cập 18 Tháng mười một năm 2010.
- ^ Stevenson, Johanthan (12 tháng 12 năm 2008). “Barca & Real renew El Clasico rivalry”. BBC Sport. Truy cập 15 Tháng tám năm 2010.
- ^ a b "Lionel Messi Reaches $50 Million-A-Year Deal With Barcelona". Forbes. Retrieved 1 October 2014
- ^ Rookwood, Dan (28 tháng 8 năm 2002). “The bitterest rivalry in world football”. The Guardian. London.
- ^ "El Clasico: When stars collide". FIFA.com. Retrieved 21 October 2014
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênMarca
- ^ “Barcelona in the strange and symbolic eye of a storm over Catalonia”. The Guardian. 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập 9 Tháng Một năm 2018.
- ^ "Barça, the most loved club in the world". Marca. Retrieved 8 May 2015
- ^ Ozanian, Mike. “Barcelona becomes first sports team to have 50 million Facebook fans”. Forbes.com.
- ^ Palomares, Cristina The quest for survival after Franco: moderate Francoism and the slow journey, p.231
- ^ Cambio 16, 6–12, Enero 1975 p.18
- ^ a b c McNeill, Donald (1999) Urban change and the European left: tales from the new Barcelona p.61
- ^ Ball, Phil (21 tháng 4 năm 2002). “Mucho morbo”. The Guardian. London. Truy cập 1 tháng Năm năm 2010.
- ^ a b Burns, Jimmy, 'Don Patricio O'Connell: An Irishman and the Politics of Spanish Football' in "Irish Migration Studies in Latin America" 6:1 (March 2008), p. 44. Available online pg. 3,pg. 4. Retrieved 29 August 2010.
- ^ Ham, Anthony p. 221
- ^ Ball, Phil p. 88
- ^ a b Fitzgerald, Nick (27 tháng 9 năm 2017). “The story of Real Madrid and the Franco regime”. thesefootballtimes.co. Truy cập 1 tháng Bảy năm 2022.
- ^ a b Kelly, Ryan. “General Franco, Real Madrid & the king: The history behind club's link to Spain's establishment”. goal.com. Truy cập 1 tháng Bảy năm 2022.
- ^ “SANTIAGO BERNABÉU 1943–1978”. realmadrid.com. Real Madrid C.F. Truy cập 1 tháng Bảy năm 2022.
- ^ “The Ultra Sur | El Centrocampista - Spanish Football and La Liga News in English”. El Centrocampista. 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập 20 tháng Mười năm 2013.
- ^ Dos Manzanas (14 tháng 6 năm 2011). “Tres Boixos Nois detenidos por agredir a una mujer transexual en Barcelona”. Dos manzanas. Truy cập 20 tháng Mười năm 2013.
- ^ “La mafia de boixos nois se especializó en atracar a narcos - Sociedad - El Periódico”. Elperiodico.com. 11 tháng 9 năm 2010. Truy cập 20 tháng Mười năm 2013.
- ^ “Great similarities between Barcelona and Celtic”. vavel.com. 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập 5 Tháng mười hai năm 2012.
- ^ “FourFourTwo's 50 Biggest Derbies in the World, No.2: Barcelona vs Real Madrid”. fourfourtwo.com. 29 tháng 4 năm 2016. Truy cập 30 tháng Năm năm 2016.
- ^ “La izquierda es culé y la derecha, merengue, según el CIS”. LaVanguardia.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). 20 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 27 Tháng hai năm 2020. Truy cập 4 tháng Chín năm 2011.
- ^ Rusiñol, Pere (23 tháng 2 năm 2003). “¿Del Madrid o del Barça?”. El País (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 21 Tháng mười một năm 2015.
- ^ “Real Madrid v Barcelona: six of the best 'El Clásicos'”. The Telegraph. London. ngày 9 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
- ^ a b c "Sid Lowe: Fear and loathing in La Liga.. Barcelona vs Real Madrid" p. 67. Random House. ngày 26 tháng 9 năm 2013
- ^ "Sid Lowe: Fear and loathing in La Liga.. Barcelona vs Real Madrid" p. 68. Random House. ngày 26 tháng 9 năm 2013
- ^ "Sid Lowe: Fear and loathing in La Liga.. Barcelona vs Real Madrid" p. 70. Random House. ngày 26 tháng 9 năm 2013
- ^ Spaaij, Ramn (2006). Understanding football hooliganism: a comparison of six Western European football clubs. Amsterdam: Amsterdam University Press. ISBN 978-90-5629-445-8. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2011.
- ^ a b Lowe, Sid. p. 73
- ^ Lowe, Sid. p. 72
- ^ "Sid Lowe: Fear and loathing in La Liga.. Barcelona vs Real Madrid" p. 77. Random House. ngày 26 tháng 9 năm 2013
- ^ a b c d “BBC SPORT | Football | Alfredo Di Stefano: Did General Franco halt Barcelona transfer?”. BBC News. ngày 7 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.
- ^ “Alfredo di Stéfano was one of football's greatest trailblazers”. The Guardian. ngày 7 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018.
- ^ a b Lowe, Sid. p. 344
- ^ "Sid Lowe: Fear and loathing in La Liga.. Barcelona vs Real Madrid" p. 345, 346. Random House. ngày 26 tháng 9 năm 2013
- ^ Lowe, Sid. p. 339
- ^ Lowe, Sid. p. 338
- ^ Jefferies, Tony (ngày 27 tháng 11 năm 2002). “Barcelona are braced for a stiff penalty”. The Daily Telegraph. London.
- ^ Deportes. “(Spanish)”. 20minutos.es. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Real Madrid v. Barcelona: A Glance Back at Past Pasillos | Futfanatico: Breaking Soccer News”. Futfanatico. ngày 5 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
- ^ “The pasillo controversy: Real Madrid should respect Barcelona with guard of honour”. Goal.com. ngày 4 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2018.
- ^ “Real win Champions League showdown”. BBC News. ngày 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2010.
- ^ a b c d "Applauding the enemy Lưu trữ 2015-05-11 tại Wayback Machine", FIFA.com, ngày 15 tháng 2 năm 2014
- ^ "Real Madrid vs Barcelona: El-Clasico Preview", The Independent, ngày 17 tháng 1 năm 2012,
- ^ "30 years since Maradona stunned the Santiago Bernabéu". FC Barcelona. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014
- ^ “Rampant Ronaldinho receives standing ovation”. BBC News. ngày 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2010.
- ^ "Real Madrid 0 Barcelona 3: Bernabeu forced to pay homage as Ronaldinho soars above the galacticos". The Independent. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Real Madrid Fans Applaud Barcelona's Andres Iniesta In 'El Clasico'”. NESN. ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2015.
- ^ “CIS Mayo 2007” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Centro de Investigaciones Sociológicas. tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
- ^ “España se pasa del Madrid al Barcelona”. as.com (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 10 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2012.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênGlobal support2
- ^ "Top 100 Facebook fan pages". FanPageList.com. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2016
- ^ Sapa-DPA (ngày 29 tháng 4 năm 2011). “Del Bosque concerned over Real-Barca conflict - SuperSport - Football”. SuperSport. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2013.
- ^ Bate, Adam (ngày 25 tháng 10 năm 2013). “Fear and Loathing”. Sky Sports. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2015.
- ^ “El club de los 100: MSN 91-88 BBC”. Marca. ngày 24 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Barcelona vs Real Madrid: First Clasico without Lionel Messi or Cristiano Ronaldo since 2007 marks end of era”. Evening Standard. ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2018.
- ^ “No Messi or Ronaldo in El Clasico for first time since 2007”. FourFourTwo. ngày 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Catalyst: The last El Clasico without Messi or Ronaldo was a defining moment in Barcelona's history”. The Sun Dream Team. ngày 23 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Iniesta's eight greatest Clasico moments”. Marca. ngày 5 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Barcelona 5–1 Real Madrid”. BBC Sport. ngày 28 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2018.
- ^ a b c d e Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênMarca2
- ^ “When Raul ended Madrid's humiliation, silenced Nou Camp”. Egypt Today. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Barcelona – Real Madrid: Ansu Fati, Ramos set Clásico records”. AS.com (bằng tiếng Anh). 18 tháng 12 năm 2019. Bản gốc lưu trữ 8 Tháng Ba năm 2020. Truy cập 19 Tháng mười hai năm 2019.
- ^ “Piqué, Clásico matches” (bằng tiếng Tây Ban Nha). BDFutbol. 29 tháng 12 năm 2019. Truy cập 29 Tháng mười hai năm 2019.
- ^ “Barcelona: Messi finishes 2017 ahead of Cristiano Ronaldo with 54 goals”. marca.com. 23 tháng 12 năm 2017. Truy cập 24 Tháng mười hai năm 2017.
- ^ “Barcelona are back! Xavi's masterplan comes to life in Clasico crushing of Real Madrid”. goal.com. 20 tháng 3 năm 2022. Truy cập 18 Tháng mười hai năm 2022.
- ^ Real Madrid's Karim Benzema scores fastest-ever The fastest goal in El Clasico history https://www.sportsbignews.com/
- ^ “The record breakers of LaLiga Santander's #ElClasico”. La Liga. Madrid.
- ^ “5 Player Transfers Between Real Madrid and Barcelona”. 90min.com (bằng tiếng Anh). 14 tháng 7 năm 2019. Truy cập 3 tháng Chín năm 2022.
- ^ Payarols, Lluís (27 tháng 2 năm 2013). “El hijo de Isaac Albéniz, primer tránsfuga Barça-Madrid”. Sport (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 27 tháng Bảy năm 2019.
- ^ “Saviola, el último tránsfuga”. Mundo Deportivo (bằng tiếng Tây Ban Nha). 28 tháng 12 năm 2007. Truy cập 27 tháng Bảy năm 2019.
- ^ Magallón, Fernando (14 tháng 7 năm 2007). “Saviola es el 16º que deja el Barça por el Madrid”. Diario AS (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập 27 tháng Bảy năm 2019.
- ^ Navarro: Joaquín Navarro Perona, BDFutbol
- ^ Navarro: Alfonso Navarro Perona, BDFutbol
- ^ Jové, Oriol (5 tháng 8 năm 2018). “El 'Kubala' de la UE Lleida”. Diari Segre (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lleida. Truy cập 27 tháng Bảy năm 2019.
- ^ Closa, Toni; Pablo, Josep; Salas, José Alberto; Mas, Jordi (2015). Gran diccionari de jugadors del Barça (bằng tiếng Catalan). Barcelona: Base. ISBN 978-84-16166-62-6.
- ^ Salinas, David (2015). El rey de Copas. Cien años del Barcelona en la Copa de España (1909-2019) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Barcelona: Meteora. ISBN 9788492874125.