Dianna Agron
Dianna Agron | |
---|---|
Agron trong tour diễn Hot Topic của Glee, ngày 17 tháng 8 năm 2009 | |
Sinh | Dianna Elise Agron 30 tháng 4, 1986 Savannah, Georgia, Hoa Kỳ |
Học vị | Burlingame High School |
Nghề nghiệp | Diễn viên, ca sĩ, vũ công |
Năm hoạt động | 2005–nay |
Dianna Elise Agron[1] (/ˈeɪɡrɒn/[2] sinh ngày 30 tháng 4 năm 1986) là một diễn viên, ca sĩ và vũ công người Mỹ, được biết đến nhiều nhất với vai Quinn Fabray trong sê ri phim truyền hình Glee.[3]
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Dianna Agron được sinh ra ở Savannah, Georgia nhưng lớn lên ở San Antonio, Texas và San Francisco, California. Cô là con gái của Mary và Ronald S. Agron, quản lý của chuỗi khách sạn Hyatt.[4][5][6] Gia đình của bố Agron xuất phát từ Nga và tên họ gốc của họ, Agronsky, được chính quyền Đảo Ellis thay đổi.[2] Bố cô sinh ra trong một gia đình Do Thái, còn mẹ cô được cải đạo thành Do Thái giáo;[7] Agron theo học ở một trường dạy tiếng Hebrew và đã trải qua lễ trưởng thành bat mitzvah.[7][8] Agron học tiểu học tại Burlingame Intermediate School và trung học tại Burlingame High School ở Burlingame, California.[3] Cô bắt đầu nhảy từ năm 3 tuổi,[9] và bắt đầu dạy nhảy khi ở độ tuổi thiếu niên.[6] Cô nói mình không "nổi tiếng" theo nghĩa thường thấy ở trường, nhưng cô vẫn có nhiều bạn bè từ những thành phần khác nhau.[10]
Khi 15 tuổi, cô biết được rằng bố cô bị đa xơ cứng. Trong một bài phỏng vấn với tạp chí Cosmopolitan, cô tiết lộ: "Đã có một chút thay đổi từ khi chuyện này xảy ra," cô nói. "Ở độ tuổi đó, bạn không thể tin được rằng bố mẹ mình rồi sẽ chết." Căn bệnh đó khiến mối quan hệ giữa bố mẹ cô tan vỡ và họ quyết định ly thân, một điều rất khủng khiếp đối với cô và em trai. "Tôi phải đóng vai trò là nhà trị liệu cho gia đình mình... trở thành chất keo hàn gắn." Cô tạm ngừng rồi nói, "Tôi vẫn chưa sẵn sàng để nói về những chuyện như thế."[11] Cô cũng tỏ ra rất kín đáo về đời tư của mình.[cần dẫn nguồn].
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Những hoạt động đầu tiên
[sửa | sửa mã nguồn]Agron đã xuất hiện trong những chương trình truyền hình như Shark, Close to Home, CSI: NY, Numb3rs,[12] và một vai phụ trong Veronica Mars. Sau đó cô thủ vai Harper trong sê ri 13 tập phim ngắn It's a Mall World do Milo Ventimiglia đạo diễn và được phát sóng trên MTV, cũng như trong mùa thứ hai của Heroes trong vai Debbie Marshall, đội trưởng đội cổ vũ ở trường trung học Costa Verde. Dianna cũng đã trở thành người dẫn chương trình cho lễ hội âm nhạc nhỏ Chickens in Love của 826LA ở Los Angeles.[13]
Cô là một trong số những ngôi sao trẻ ở Hollywood được lựa chọn tham gia vào chiến dịch quảng bá mùa xuân năm 2010 Ocean Pacific của Wal-Mart. Chiến dịch toàn quốc này được ra mắt trên nhiều tạp chí thời trang, phong cách sống và giải trí như Elle, Teen Vogue, Seventeen và Cosmopolitan cũng như trên trang web chính thức của Ocean Pacific.[14] Thêm vào đó, những người nổi tiếng này cũng đã tổ chức một bữa tiệc Ocean Pacific ở Los Angeles vào cuối tháng 4 và xuất hiện nhiều lần với tư cách đại diện cho hãng.[14]
Glee
[sửa | sửa mã nguồn]Vai diễn đáng chú ý nhất của Agron là Quinn Fabray, một thành viên đội cổ vũ trường trung học, trong sê ri phim truyền hình Glee của Fox. Cô cùng các bạn diễn đã nhận được giải thưởng Screen Actors Guild Award dành cho Màn biểu diễn nhóm xuất sắc trong một sê ri phim hài vào năm 2010 và được đề cử trong cùng hạng mục năm 2011,[15][16][17] cũng như hai giải quả cầu vàng dành cho sê ri phim truyền hình nhạc kịch/hài xuất sắc nhất.[18][19]
Cốt truyện về cái thai tình cờ của nhân vật nhận được những ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình. Tim Stack của Entertainment Weekly cho rằng đó là "một, nhưng không mong muốn nó trở thành một cốt truyện lâu dài.[20] Phản hồi đối với cốt truyện của cô ngày càng trở nên tiêu cực,[21] tuy nhiên Agron nhận được nhiều khen ngợi dành cho diễn xuất của mình trong cảnh phim cùng bố mẹ của Quinn ở tập "Ballad".[22] Gerrick D. Kennedy của Los Angeles Times chỉ trích diễn biến của cốt truyện này trong tập "Hairography", và nói rằng mình cảm thấy khó chịu mỗi lần Quinn xuất hiện.[23] Trái lại, Bobby Hankinson của Houston Chronicle tỏ ra thích thú với nhân vật trong tập này, "Tôi rất thích việc cô ấy vừa có thể giữ được sự ngổ ngáo vừa thể hiện được nỗi buồn và cả niềm vui khi biểu diễn "Papa Don't Preach"."[24] Phê bình tập "Journey to Regionals", Darren Franich của Entertainment Weekly cho rằng cảnh lâm bồn của Quinn—xen kẽ với màn biểu diễn "Bohemian Rhapsody" (Queen) của Vocal Adrenaline—vừa "tuyệt vời" vừa "tồi tệ", "Đó thực sự là cảnh lâm bồn lôi cuốn về mặt hình ảnh nhất mà tôi từng thấy ngoài The Miracle of Life. Nhưng tôi khá là thích nó. Ở đâu đó, Freddie Mercury đang gật gù đầy tự hào."[25]
Brett Berk, viết cho tạp chí Vanity Fair, có những nhận xét tích cực về kịch bản dành cho nhân vật Quinn trong mùa thứ hai, khi cốt truyện về cái thai đã kết thúc, và tỏ ra vui mừng khi "Quinn xấu xa" đã trở lại.[26] Joel Kelly của TV Squad chỉ trích quyết định ghép Quinn và Finn thành một cặp trong tập phim với chủ đề Valentine, cho rằng đó là một bước thụt lùi, "Đúng, có cảm giác như đây là Glee kinh điển, bởi phim bắt đầu khi họ đang ở bên nhau. Nhưng cả hai đều đã thay đổi—Quinn thay đổi nhiều hơn Finn—và việc hẹn hò trở lại khiến họ như quay về lúc Quinn vẫn đang là một thành viên đội cổ vũ lạnh lùng còn Finn thì là đội trưởng đội bóng bầu dục tốt tính nhưng ngớ ngẩn."[27]
Sự lột xác của Quinn trong mùa thứ ba nhận được những ý kiến trái chiều. Lesley Goldberg của The Hollywood Reporter coi sự thay đổi này là điểm nhấn của tập phim, và hy vọng tiếp tục được theo dõi thái độ mới của nhân vật.[28] Kevin Fallon của The Atlantic coi điều này là "việc thú vị nhất Quinn từng làm từ khi sinh một đứa bé trên nền nhạc 'Bohemian Rhapsody'",[29] nhưng VanDerWerff cảm thấy rằng diễn biến này là kết quả của việc các nhà sát xuất không còn khả năng khai thác Agron.[30]
Agron cũng xuất hiện trong bộ phim Glee: The 3D Concert Movie của tour diễn Glee Live! In Concert!.
Cô được thông báo là đã trở thành một diễn viên phụ/khách mời trong mùa thứ tư.[31] Cô đã xuất hiện trong các tập Thanksgiving, Naked và I Do..[32][33][34]
Các ca khúc cô dã trình bày
[sửa | sửa mã nguồn]Một số ca khúc do Agron trong vai Quinn thể hiện đã được phát hành thành đĩa đơn và có thể được tải xuống, cũng như xuất hiện trong các album nhạc phim của Glee.[35][36] Agron biểu diễn lần đầu tiên ở cuối tập "Showmance" với ca khúc "I Say a Little Prayer" của Dionne Warwick.[35] Ca khúc solo tiếp đó của Quinn nằm trong tập "Throwdown", cô biểu diễn "You Keep Me Hangin' On" của The Supremes.[35] Ca khúc này được phát hành cùng với album Glee: The Music, Volume 1. Sau đó, trong tập "Hairography", Agron biểu diễn solo ca khúc "Papa Don't Preach" của Madonna sau khi bố cô biết được rằng cô đang có thai. Ca khúc này được phát hành thành đĩa đơn.[35] Cô trình bày ca khúc "It's a Man's Man's Man's World" của James Brown trong tập "Funk".[36]
Trong mùa thứ ba, Quinn biểu diễn ca khúc solo đầu tiên kể từ mùa thứ nhất, "Never Can Say Goodbye" của The Jackson 5 và nhận được những phản hồi tích cực.
Các hoạt động khác
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2007, Agron xuất hiện trong vai Dyanna trong bộ phim hành động tình cảm kinh dị T.K.O. do Declan Mulvey đạo diễn cùng với Samantha Alarcon, Daz Crawford và Christian Boeving.[37] Cô cũng thủ vai Megan trong bộ phim hài Skid Marks do Karl Kozak dạo diễn cùng với Tyler Poelle, Mikey Post và Kathy Uyen.[38]
Năm 2009, Agron viết kịch bản, thủ vai chính, đạo diễn và sản xuất phim hài ngắn A Fuchsia Elephant. Cốt truyện xoay quanh nhân vật của Agron. Ngày cuối cùng trước sinh nhật thứ 18, Charlotte Hill quyết định thay đổi bản thân. Không muốn đi theo vết xe đổ của người mẹ nghiện ngập, cô nhờ một người đồng hành tên là Michael (Dave Franco) giúp đỡ và chỉ dẫn. Phim được quay trong khoảng thời gian Glee tạm dừng lên sóng mùa hè năm 2009.[39] Cô cũng xuất hiện trong phim hài ngắn Dinner with Raphael cùng với Paul Boukadakis và Michael Bower, do Joey Boukadakis viết kịch bản và đạo diễn.[40] Cô còn đóng một vai nhỏ là Sadie trong bộ phim hài Celebrities Anonymous do Dennis Hemphill Jr. đạo diễn cùng với Lindsay Zir và Joey Kern.
Năm 2010, Agron đạo diễn video âm nhạc cho ca khúc "Body" của Thao with the Get Down Stay Down.[41]
Cũng trong năm 2010, Agron đảm nhận vai Minnow, em gái Lila Hayes trong bộ phim hài lãng mạn The Romantics cùng với Anna Paquin, Katie Holmes và Josh Duhamel.[42] Cô còn đóng vai Natalie, hôn thê của nhân vật Jack trong bộ phim Burlesque cùng với Christina Aguilera, Cher và Stanley Tucci.[43]
Agron được tạp chí People chọn vào danh sách những người đẹp nhất năm 2010.[44] Cô cũng xếp ở vị trí thứ 8 trong danh sách Hot 100 của AfterEllen.[45] Thêm vào đó, cô chiếm vị trí thứ 13 trong danh sách 50 nhân vật nữ trên phim truyền hình được yêu thích nhất của AfterEllen với vai Quinn Fabray trong Glee.[46] Sau đó, cô cùng các bạn diễn Naya Rivera và Heather Morris lọt vào ba vị trí đầu bảng trong danh sách Hot 100 năm 2012 của AfterEllen, Agron ở vị trí thứ hai.[47]
Năm 2011, Agron thủ vai Alice cùng với Steven Waddington và Tony Becker trong bộ phim kinh dị The Hunters do Chris Briant đạo diễn.[48][49] Cô còn xuất hiện trong bộ phim khoa học viễn tưởng hành động kinh dị I Am Number Four do D. J. Caruso đạo diễn cùng với Alex Pettyfer và Timothy Olyphant.[50] [51]
Agron dẫn chương trình cho lễ trao giải GLAAD Media Award vào ngày 2 tháng 6 năm 2012 tại San Francisco.[52] Bạn diễn Glee của cô, Naya Rivera và Cory Monteith, cũng dã từng dẫn chương trình cho lễ trao giải này vào ngày 24 tháng 3 năm 2012 tại thành phố New York. Làm theo truyền thống bán đấu giá những nụ hôn của mình cho khán giả của Rivera, cô thu được 5,500 đô la.
Tháng 3 năm 2012, Agron được thông báo là sẽ đóng vai Sophia cùng với Famke Janssen, Rosario Dawson và Sebastian Stan trong bộ phim Famous do David Foote đạo diễn.[53][54]
Ngày 13 tháng 7 năm 2012, Agron xác nhận rằng cô sẽ đảm nhận vai Belle Blake trong bộ phim Malavita cùng Robert De Niro và Michelle Pfeiffer.[55]
Tháng 9 năm 2012, Dianna Agron được thông báo là sẽ tham gia vào chiến dịch quảng bá "Play As You Are" cho Nintendo. Cô sẽ xuất hiện trong các đoạn phim quảng cáo của Art Academy: Lessons for Everyone! Trò chơi cho phép người chơi ở mọi trình độ kỹ năng nghệ thuật học hỏi nhiều kỹ thuật vẽ có thể được ứng dụng trong đời thực, từ bút chì, sơn vẽ tranh đến phấn màu. Cô cũng sẽ xuất hiện trong trò chơi phiêu lưu giải đố Professor Layton and the Miracle Mask.[56]
Ngày 25 tháng 2 năm 2013, Dianna trở thành người dẫn chương trình đồng thời biểu diễn "Dreams" và "What's Love Got to Do with It " cùng với A House For Lions tại buổi hòa nhạc "You, Me and Charlie" ở Los Angeles.[57][58]
Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Dianna Agron hẹn hò với bạn diễn I Am Number Four Alex Pettyfer trong vòng một năm.[59]
Agron ăn chay và là một người ủng hộ cho PETA.[60] Cô cũng đấu tranh cho quyền của người đồng tính.[61]
Năm 2011, cô trải qua một cuộc phẫu thuật mũi để điều trị lệch vách ngăn, hậu quả của một cú va đập vào mũi ở tuổi 14.[62]
Sử dụng tài khoản Tumblr của mình, Agron cho ra mắt trang web You Me & Charlie vào ngày 12 tháng 12 năm 2011. Cùng với sự hỗ trợ của một vài cộng sự, cô viết và thu thập các bài viết về âm nhạc, nghệ thuật, thời trang và những nguồn cảm hứng trong cuộc sống.[63] Vanity Fair đã khen ngợi trang web, nhận xét rằng nó "tràn ngập ánh nắng, niềm lạc quan và những người đẹp."[64]
Tài khoản Twitter của cô bị phá hoại vào ngày 18 tháng 12 năm 2012. Kẻ phá hoại cũng đã đột nhập vào hộp thư điện tử cá nhân của cô và bắt đầu làm rò rỉ nhiều bài hát, kịch bản và tập phim.[65]
Năm 2012, Agron hợp tác với The Trevor Project để quyên góp tiền cho ngày sinh nhật của mình. Cô và người hâm mộ đã quyên góp được hơn 26,000 đô la.[66]
Cô cũng thông qua tài khoản Tumblr của mình để cổ vũ người hâm mộ quyên góp cho một số tổ chức như 826LA and và Wildlife Waystation.[67][68]
Các phim đã đóng
[sửa | sửa mã nguồn]Điện ảnh | ||||
---|---|---|---|---|
Năm | Tên phim | Vai diễn | Ghi chú | |
2005 | Talkers Are No Good Doers | Jen | Ra mắt lần đầu tiên | |
2006 | After Midnight: Life Behind Bars | Kelly | Phim truyền hình | |
2006 | When a Stranger Calls | Thành viên đội cổ vũ | Khách mời (không được đề tên) | |
2007 | T.K.O. | Dyanna | Vai chính | |
2007 | Rushers | Dianna Agron | Phim ngắn | |
2007 | Skid Marks | Megan | Vai chính | |
2009 | Dinner with Raphael | Dianna | Phim ngắn Funny or Die | |
2009 | A Fuchsia Elephant | Charlotte Hill | Phim ngắn | |
2009 | Celebrities Anonymous | Sadie | Phim truyền hình | |
2010 | Bold Native | Samantha | Vai phụ | |
2010 | Romantics, TheThe Romantics | Minnow Hayes | Vai phụ | |
2010 | Burlesque | Natalie | Vai phụ | |
2011 | Hunters, TheThe Hunters | Alice | Vai chính | |
2011 | I Am Number Four | Sarah Hart | Vai chính | |
2011 | Glee: The 3D Concert Movie | Quinn Fabray | Diễn viên chính | |
2013 | Unity | Người kể chuyện | Phim tài liệu | |
2013 | Malavita | Belle Blake | Hậu kỳ | |
2013 | Famous | Sophia | Pre-production | |
Truyền hình | ||||
Năm | Tên phim | Vai diễn | Ghi chú | |
2006 | Close To Home | Cô gáy say rượu | Tập: "Homecoming" | |
2006 | CSI: NY | Jessica Grant | Tập: "Murder Sings the Blues" | |
2006 | Drake & Josh | Lexi | Tập: "The Great Doheny" | |
2006 | Shark | Gia Mellon | Tập: "Love Triangle" | |
2006-2007 | Veronica Mars | Jenny Budosh | 3 tập | |
2007 | Heroes | Debbie Marshall | 4 tập | |
2007 | It's a Mall World | Harper | Diễn viên chính | |
2008 | Heroes Unmasked | Debbie Marshall | Sê ri phim tài liệu | |
2008 | Numb3rs | Kelly Rand | Tập: "Jack of All Trades" | |
2009-nay | Glee | Quinn Fabray | Diễn viên chính (Mùa 1-3) Khách mời (Mùa 4) | |
2012 | Punk'd | Chính mình | Tập: "Hayden Panettiere" | |
2012 | Glee Project, TheThe Glee Project | Chính mình | Tập: "Actability" |
Giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Đề cử cho | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2010 | Screen Actors Guild Awards | Màn biểu diễn nhóm xuất sắc trong một sê ri phim hài | Glee | Đoạt giải |
Teen Choice Awards | Nữ diễn viên phim truyền hình đột phá | Đề cử | ||
Breakthrough of the Year | Diễn viên mới đột phá | Đoạt giải | ||
2011 | Screen Actors Guild Awards | Màn biểu diễn nhóm xuất sắc trong một sê ri phim hài | Đề cử | |
Teen Choice Awards | Nữ diễn viên phim truyền hình xuất sắc | Đề cử | ||
Victoria's Secret: What's Sexy List | Nụ cười gợi cảm nhất | Chính mình | Đoạt giải | |
2012 | Screen Actors Guild Awards | Màn biểu diễn nhóm xuất sắc trong một sê ri phim hài | Glee | Đề cử |
Teen Choice Awards | Nữ diễn viên phim truyền hình xuất sắc | Đề cử | ||
Giffoni Award | Không rõ | Chính mình | Đoạt giải | |
2013 | Screen Actors Guild Awards | Màn biểu diễn nhóm xuất sắc trong một sê ri phim hài | Glee | Đề cử |
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]- Glee: The Music, Volume 1
- Glee: The Music, The Power of Madonna
- Glee: The Music, Volume 3 Showstoppers
- Glee: The Music, Journey to Regionals
- Glee: The Music, The Rocky Horror Glee Show
- Glee: The Music, The Christmas Album
- Glee: The Music, Volume 4
- Glee: The Music, Volume 5
- Glee: The Music, Volume 6
- Glee: The 3D Concert Movie (Motion Picture Soundtrack)
- Glee: The Music, Volume 7
- Glee: The Music, The Graduation Album
- Glee: The Music, Season 4, Volume 1
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Agron, Dianna (ngày 12 tháng 6 năm 2011). “ngày 2 tháng 6 năm 2000 – What does that day, month and year mean to you?”. Tumblr. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b “HollyLesson! 'Glee' Star Dianna Agron Tweets How to Pronounce Her Name”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
- ^ a b Malcolm, Shawna (2010). “Role Call”. Emmy. North Hollywood, California: Academy of Arts and Sciences. XXXII (3): 108. ISSN 0164-3495. OCLC 4629234.
- ^ Dianna Agron at interviewmagazine.com
- ^ Miller, Julie. "Dianna Agron Worked on Her High School Yearbook, and 4 Other Gleeful Revelations" Lưu trữ 2011-08-20 tại Wayback Machine, Movieline, ngày 27 tháng 1 năm 2011.
- ^ a b Zuckerman, Suzanne (ngày 28 tháng 1 năm 2010). “Dreaming Big: Dianna Agron of Glee”. Womens Health.
- ^ a b Miller, Gerri (tháng 8 năm 2009). “Glee Club Glory|”. JVibe. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2009.
- ^ “'Glee' Season Premiere Hits a High Note at Comic-Con”. ScreenRant. ngày 27 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2009.
- ^ Dianna Agron biography at TV Guide
- ^ Ghosh, Korbi (ngày 30 tháng 9 năm 2009). “'Glee': Mark Salling, Lea Michele & Dianna Agron on pregnancy, lies & love”. Zap2it.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
- ^ Dianna Agron Cosmopolitan Interview Fanpop. Truy cập September 2011.
- ^ “Dianna Agron- Biography”. Yahoo! Movies. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2012.
- ^ “826LA's Chickens in Love”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2009.
- ^ a b “Op Unveils It's 'Rock Your Shine' Marketing Campaign”.
- ^ “16th Annual Screen Actors Guild Awards scorecard”. Los Angeles Times. Tribune Company. ngày 23 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Nominations Announced for the 17th Annual Screen Actors Guild Awards”. www.sag.org. Screen Actors Guild. ngày 16 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2010.
- ^ “The 16th Annual Screen Actors Guild Awards | Screen Actors Guild Awards”. Screen Actors Guild. ngày 24 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
- ^ “HFPA – Nominations and Winners”. Hollywood Foreign Press Association. ngày 18 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
- ^ “HFPA – Nominations and Winners”. Hollywood Foreign Press Association. ngày 17 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
- ^ Stack, Tim (ngày 24 tháng 9 năm 2009). “'Glee' recap: Kurt comes out a winner!”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2009.
- ^ Tucker, Ken (ngày 14 tháng 10 năm 2009). “'Glee': Unwanted pregnancy?”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2009.
- ^ Goldman, Eric (ngày 19 tháng 11 năm 2009). “Glee: "Ballad" Review”. IGN. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2009.
- ^ Kennedy, Gerrick D. (ngày 26 tháng 11 năm 2009). “'Glee': A hairlicious distraction before Thanksgiving”. Los Angeles Times. Tribune Company. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009.
- ^ Hankinson, Bobby (ngày 26 tháng 11 năm 2009). “Glee: Hair today, gone for 4 months tomorrow”. Houston Chronicle. Hearst Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2009.
- ^ FranichDa, Darren (ngày 9 tháng 6 năm 2010). “'Glee' recap: Journey to the Center of Birth”. Entertainment Weekly. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
- ^ “The Gay Guide to Glee: Season 2 Episode 1, "Audition"”. Vanity Fair. ngày 22 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2010.
- ^ Kelly, Joel (ngày 8 tháng 2 năm 2011). “'Glee' Valentine's Day Episode Recap”. TV Squad.com. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.
- ^ Goldberg, Lesley (ngày 20 tháng 9 năm 2011). “'Glee' Season 3 Premiere: Hits and Misses”. The Hollywood Reporter. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
- ^ Fallon, Kevin (ngày 21 tháng 9 năm 2011). “'Glee' Is Back, and It Has Fixed (Almost) All Its Problems”. The Atlantic. Atlantic Media Company. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
- ^ VanDerWerff, Todd (ngày 21 tháng 9 năm 2011). “"The Purple Piano Project"”. The A.V. Club. The Onion. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
- ^ Exclusive Video: Dianna Agron Is Done With Glee! US Magazine.com. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2012.
- ^ GLEE - 04 - THANKSGIVING (29-Nov-2012)[liên kết hỏng] foxfast.com. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012
- ^ GLEE - 04 - NAKED (31-Jan-2013)[liên kết hỏng] foxfast.com. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2013
- ^ GLEE - 04 - I DO (14-Feb-2013 (T)) Lưu trữ 2013-02-16 tại Archive.today foxfast.com. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2013
- ^ a b c d Linder, Brian (ngày 4 tháng 11 năm 2009). “Glee: The Music – Vol. 1 Review”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b Linder, Brian (ngày 8 tháng 12 năm 2009). “Glee: The Music, Vol. 2 Review”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2009.
- ^ “TKO (2007) Official Trailer # 1”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
- ^ Skid Marks (Dianna Agron) FirstPost. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2007
- ^ Dianna Agron's Short Film 'A Fuchsia Elephant' In High Demand cambio.com Retrieved ngày 13 tháng 12 năm 2010
- ^ Dianna Agron - On the set of 'Dinner with Raphael' lucywho.com Retrieved ngày 12 tháng 12 năm 2009
- ^ Oxfam America presents Body by Thao with the Get Down Stay Down directed by Dianna Agron of Glee trên YouTube
- ^ Dianna Agron on 'The Romantics' and Her Dream Role Lưu trữ 2013-05-26 tại Wayback Machine Wetpaint.com. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010
- ^ ‘Glee’ Star Dianna Agron Joins Christina Aguilera and Cher In ‘Burlesque’ Lưu trữ 2016-05-29 tại Archive.today idolator.com. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010
- ^ “Dianna Agron: What Real Beauty Is – Most Beautiful, Dianna Agron, People.com Franchises: Video”. People. ngày 14 tháng 4 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
- ^ “The 2011 AfterEllen.com Hot 100 | People, Celebrities, Actresses & Profiles Of Gay, Lesbian & Bisexual Women In Movies, TV Shows & Music”. AfterEllen.com. ngày 23 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
- ^ AfterEllen.com's Top 50 Favorite Female TV Characters AfterEllen.com. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2012
- ^ “Glee stars at the "2012 AfterEllen Hot 100" list”. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2013.
- ^ Dianna Agron In 'The Hunters': 'Glee' Star's Thrilling New Role Huffingtonpost. Truy cập December 27
- ^ Check Out The Trailer For Dianna Agron's New Horror Movie, 'The Hunters' — So Different Than 'Glee!' Lưu trữ 2015-04-12 tại Wayback Machine hollywoodlife.com. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011
- ^ Glee good girl Dianna Agron upstaged by vampish co-star Teresa Palmer at I Am Number Four premiere dailymail.co.uk. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011
- ^ Dianna Agron On Set Interview 'I AM NUMBER FOUR' collider.com. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010
- ^ Dianna Hosts the GLAAD Media Awards in San Francisco ontd-glee.livejournal. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2012
- ^ Dianna Agron’s New Movie: Which Familiar Face is Playing Her "Male Gigolo" Co-star? Lưu trữ 2013-12-28 tại Wayback Machine WetPaint.com. Retrieve ngày 29 tháng 3 năm 2012
- ^ Famous Lưu trữ 2013-12-28 tại Wayback Machine intandemfilms.com
- ^ Dianna Agron Playing De Niro's Daughter in Luc Besson's 'Malavita' (Exclusive) The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Dianna Agron in Nintendo "Play As You Are" Campaign”. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2012.
- ^ Dianna Agron Announces You, Me & Charlie's First Concert! Lưu trữ 2013-02-23 tại Wayback Machine WetPaint.com. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2013
- ^ YM&C Concert Recap! Lưu trữ 2013-03-02 tại Wayback Machine youmeandcharlie.com. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2013
- ^ Glee star Dianna Agron 'terrified' of ex-boyfriend Alex Pettyfer after ugly split dailymail.co.uk. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011
- ^ "Men Find Compassion Very Desirable" Lưu trữ 2010-04-27 tại Wayback Machine The PETA Files, PETA blog site
- ^ “Dianna Agron Speaks Up for Gay Rights”. Teen Hollywood. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Dianna Agron Tells David Letterman She Had Her Nose Fixed”. Huffington Post. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2011.
- ^ "About Charlie" Lưu trữ 2012-07-12 tại Wayback Machine You Me & Charlie
- ^ "Vanity Fair!!!" Tumblr. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2012.
- ^ Dianna Agron And Other Celebs Who Had Their Twitter Hacked Huffingtonpost. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011
- ^ "Dianna Agron Birthday Project: The Trevor Project" Lưu trữ 2012-07-21 tại Wayback Machine Causes.com. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2012.
- ^ "826 Love" Tumblr. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.
- ^ "Hey guys, can you help?" Tumblr. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2012.