Bước tới nội dung

Chiến tranh Palestine 1948

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Palestine 1948
Một phần của xung đột liên cộng đồng ở Lãnh thổ Ủy trị Palestine, xung đột Ả Rập – Israelxung đột Israel–Palestine

Các binh sĩ Ả Rập trước một chiếc xe tải bọc thép của Haganah đang bốc cháy gần thành phố Jerusalem (k. 1948)
Thời gian30 tháng 11 năm 1947 – 20 tháng 7 năm 1949
(1 năm, 7 tháng, 2 tuần và 6 ngày)
Địa điểm
Kết quả
Thay đổi
lãnh thổ

Hiệp định đình chiến 1949:

Tham chiến

Yishuv
(trước 14 tháng 5 năm 1948)
 Israel
(sau 14 tháng 5 năm 1948)


Trước 26 tháng 5 năm 1948:


Sau 26 tháng 5 năm 1948:


Tình nguyện viên quốc tế:


Chỉ huy và lãnh đạo
Lực lượng
Israel: ban đầu ~10.000, tăng lên 115.000 vào tháng 3 năm 1949

Liên quân Ả Rập: ban đầu ~2.000, tăng lên 70.000, bao gồm:

  • Ai Cập: ban đầu 10.000, tăng lên 20.000
  • Iraq: ban đầu 3.000, tăng lên 15.000–18.000
  • Syria: 2.500–5.000
  • Transjordan: 8.000–12.000
  • 'Liban: 1.000[7]
  • Ả rập Xê Út: 800–1.200
  • Quân đội Giải phóng Ả Rập: 3.500–6.000
Thương vong và tổn thất
6.080 chết (khoảng 4.074 lính và 2.000 thường dân)[8] Khoảng +5.000[8] đến 20.000 (bao gồm cả thường dân),[9] trong đó có 4.000 binh sĩ Ai Cập, Jordan và Syria
Ước tính khác: 15.000 lính Ả Rập chết và 25.000 bị thương [10]

Chiến tranh Palestine 1948[a] là cuộc chiến diễn ra ở khu vực Lãnh thổ Ủy trị Palestine của Anh.[12][13][14][15][16][17] Trong chiến tranh, người Anh rút khỏi Palestine, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái chiếm đóng lãnh thổ và thành lập Nhà nước Israel, và hơn 700.000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất. Đây là cuộc chiến đầu tiên trong xung đột Israel–Palestine và rộng hơn là xung đột Ả Rập – Israel.

Cuộc chiến được chia thành hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên là cuộc nội chiến 1947–1948 bắt đầu từ ngày 30 tháng 11 năm 1947,[18] một ngày sau khi Liên Hợp Quốc bỏ phiếu thông qua Kế hoạch phân chia Palestine về phân chia lãnh thổ thành các quốc gia có chủ quyền của người Do Thái và Ả Rập. Trong thời kỳ này, Anh vẫn duy trì quyền cai trị ngày càng suy yếu đối với Palestine và thỉnh thoảng can thiệp vào các hành động bạo lực.[19][20] Vào cuối giai đoạn nội chiến, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã thực hiện Kế hoạch Dalet, một chiến dịch tấn công nhằm chinh phục lãnh thổ với mục đích thành lập một nhà nước Do Thái theo kế hoạch.[21]

Giai đoạn thứ hai của cuộc chiến bắt đầu vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, với việc chấm dứt sự ủy trị của Anh và tuyên bố thành lập Nhà nước Israel. Sáng hôm sau, quân đội Ả Rập bao vây xâm lược Palestine, bắt đầu Chiến tranh Ả Rập – Israel 1948. Quân Ai Cập tiến về phía đông nam trong khi Liên đoàn Ả Rập ở Jordan và lực lượng Iraq chiếm được vùng cao nguyên trung tâm. Syria và Liban chiến đấu với lực lượng Israel ở phía bắc. Lực lượng Phòng vệ Israel đã ngăn chặn được đoàn quân Ả Rập và trong những tháng tiếp theo bắt đầu đẩy lùi họ và tái chiếm lãnh thổ. Đến cuối cuộc chiến, Nhà nước Israel đã chiếm được khoảng 78% lãnh thổ ủy trị trước đây, Vương quốc Jordan chiếm đóng và sáp nhập khu vực mà ngày nay là Bờ Tây, và Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza. Chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp định đình chiến 1949, thiết lập “Đường Xanh” (Green Line) phân định các lãnh thổ này.

Trong chiến tranh, các vụ thảm sát và hành động khủng bố đã được cả hai bên tiến hành. Một chiến dịch thảm sát và bạo lực nhắm vào người dân Ả Rập, chẳng hạn như tại Lydda và RamleTrận Haifa, dẫn tới việc 700.000 người Palestine bị trục xuất và phải bỏ trốn, với phần lớn các đô thị bị mất dân số và bị phá hủy. Việc bạo lực và sự tước đoạt quyền sở hữu này của người Palestine ngày nay được gọi là Nakba (tiếng Ả Rập có nghĩa là "thảm họa")[22] và mở ra vấn đề người tị nạn Palestine.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Người Palestine gọi các sự kiện năm 1948 là Nakba (tiếng Ả Rập: النَكْبَة‎, nghĩa đen là 'thảm họa'). Ở Israel, nó được gọi là Chiến tranh giành độc lập (tiếng Hebrew: מלחמת העצמאות‎; Milkhemet Ha'Atzma'ut).[11]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Anita Shapira, L'imaginaire d'Israël : histoire d'une culture politique (2005), Latroun : la mémoire de la bataille, Chap. III. 1 l'événement p. 91–96
  2. ^ Benny Morris (2008), p.419.
  3. ^ Nisan, Mordechai (2015). Minorities in the Middle East: A History of Struggle and Self-Expression, 2d ed. McFarland. tr. 284. ISBN 978-0-7864-5133-3. This Jewish-Druze partnership was often referred to as a "covenant of blood," in recognition of the common military yoke carried by the two peoples for the security of the country.
  4. ^ “The Druze in Israel: Questions of Identity, Citizenship, and Patriotism” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  5. ^ Palestine Post, "Israel's Bedouin Warriors", Gene Dison, August 12, 1948
  6. ^ AFP (24 tháng 4 năm 2013). “Bedouin army trackers scale Israel social ladder”. Al Arabiya. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2015.
  7. ^ Pollack, 2004; Sadeh, 1997
  8. ^ a b Sandler, Stanley (2002). Ground Warfare: An International Encyclopedia. ABC-CLIO. tr. 160. ISBN 978-1-57607-344-5. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ Esber, Rosemarie (2009). Under the Cover of War. Arabicus Books & Media. tr. 28.
  10. ^ Clodfelter, Micheal (2017). Warfare and Armed Conflicts: A Statistical Encyclopedia of Casualty and Other Figures, 1492–2015 (ấn bản 4). McFarland. tr. 572. ISBN 978-0-7864-7470-7.
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  12. ^ Middle East Institute. The Palestinian Nakba: What Happened in 1948 and Why It Still Matters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022 – qua YouTube.[nguồn không đáng tin?]
  13. ^ Michael R. Fischbach, an American scholar of the archives of the United Nations Conciliation Commission for Palestine, estimates that, in all, Palestinians lost some 6 to 8 million dunams (1.5 to 2 million acres) of land, not including communal land farmed by villages or state land. Mattar, Philip (2005). “Al-Nakba”. Trong Mattar, Philip (biên tập). Encyclopedia of the Palestinians. Infobase. ISBN 9780816069866. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2022.
  14. ^ Firestone, Reuven (2012). Holy War in Judaism: The Fall and Rise of a Controversial Idea. Oxford University Press. tr. 10, 296. ISBN 978-0-19-986030-2. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2022. To Jews, the Jewish-Arab war of 1947–1948 is the War of Independence (milchemet ha'atzma'ut). To Arabs, and especially Palestinians, it is the nakba or calamity. I therefore refrain from assigning names to wars. I refer to the wars between the State of Israel and its Arab and Palestinian neighbors according to their dates: 1948, 1956, 1967, 1973, and 1982.
  15. ^ Caplan, Neil (2011). The Israel-Palestine Conflict: Contested Histories. John Wiley & Sons. tr. 17. ISBN 978-1-4443-5786-8. Perhaps the most famous case of differences over the naming of events is the 1948 war (more accurately, the fighting from December 1947 through January 1949). For Israel it is their 'War of Liberation' or 'War of Independence' (in Hebrew, milhemet ha-atzama'ut) full of the joys and overtones of deliverance and redemption. For Palestinians, it is Al-Nakba, translated as 'The Catastrophe' and including in its scope the destruction of their society and the expulsion and flight of some 700,000 refugees.
  16. ^ Caplan, Neil (1997). Futile Diplomacy: The United Nations, the Great Powers, and Middle East Peacemaking 1948–1954. 3. Frank Cass & Co. tr. 17. ISBN 978-0-7146-4756-2. Although some historians would cite 14 May 1948 as the start of the war known variously as the Israeli War of Independence, an-Nakba (the (Palestinian) Catastrophe), or the first Palestine war, it would be more accurate to consider that war as beginning on 30 November 1947.
  17. ^ “nakba” نكبة. Almaany (bằng tiếng Anh). tr. 1. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2021.
  18. ^ Morris (2008), p.77
  19. ^ Morris (2008), pp. 77–79
  20. ^ Tal (2003), p.41
  21. ^ Khalidi, Walid (1 tháng 10 năm 1988). “Plan Dalet: Master Plan for the Conquest of Palestine”. Journal of Palestine Studies (bằng tiếng Anh). 18 (1): 4–19. doi:10.2307/2537591. ISSN 0377-919X. JSTOR 2537591. 'Plan Dalet' or 'Plan D' was the name given by the Zionist High Command to the general plan for military operations within the framework of which the Zionists launched successive offensives in April and early May 1948 in various parts of Palestine. These offensives, which entailed the destruction of the Palestinian Arab community and the expulsion and pauperization of the bulk of the Palestine Arabs, were calculated to achieve the military fait accompli upon which the state of Israel was to be based.
  22. ^

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “GilbertBookReview” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Morris2008p47” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Morris2008p412” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unispal” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p67” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p116” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p339” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]