Bước tới nội dung

Cantherhines dumerilii

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cantherhines dumerilii
Phân loại khoa học edit
Vực: Eukaryota
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Tetraodontiformes
Họ: Monacanthidae
Chi: Cantherhines
Loài:
C. dumerilii
Danh pháp hai phần
Cantherhines dumerilii
(Hollard, 1854)
Các đồng nghĩa
Danh sách
    • Monacanthus dumerilii Hollard, 1854
    • Monacanthus howensis Ogilby, 1889
    • Cantherhines carolae Jordan & McGregor, 1898
    • Monacanthus albopunctatus Seale, 1901
    • Pseudomonacanthus multimaculatus Regan, 1903
    • Pseudomonacanthus punctulatus Regan, 1903

Cantherhines dumerilii là một loài cá biển thuộc chi Cantherhines trong họ Cá bò giấy. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1854.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh dumerilii được đặt theo tên của Auguste Duméril, nhà bò sát học kiêm ngư học người Pháp, người đã gửi mẫu gốc của loài cá này và các mẫu vật cá bò giấy khác cho Hollard.[2]

Phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. dumerilii có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, gồm cả bờ đông của Thái Bình Dương, từ mũi nam Baja California đến Colombia, kể cả một số đảo ngoài khơi. Từ OmanĐông Phi, phạm vi của chúng trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaiiđảo Ducie (quần đảo Pitcairn), ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản, xa về phía nam đến, Nam Phi, Úc và đảo Rapa Iti.[1] C. dumerilii mới được ghi nhận tại vùng biển Ninh Thuận (Việt Nam).[3]

C. dumerilii sống trên các rạn san hô, phổ biến ở vùng nước mặt xung quanh các đảo, độ sâu đến khoảng 70 m.[4]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở C. dumerilii là 38 cm.[4] Đầu và thân màu nâu xám hoặc nâu vàng đến nâu sẫm, có khoảng 12 vạch sọc dọc ở thân sau. Mắt vàng cam. Môi trắng. Vây lưng mềm, vây ngực và vây hậu môn có các tia vàng nhạt. Vây đuôi màu vàng cam (sẫm cam hơn ở cá đực), có tia màu sẫm. Ngạnh mỗi bên cuống đuôi ở cá đực trưởng thành màu cam (dài hơn so với cá cái). Cá con và cá gần trưởng thành có nhiều đốm trắng trên đầu và thân.

Số gai vây lưng: 2; Số tia vây lưng: 34–39; Số gai vây hậu môn: 0; Số tia vây hậu môn: 28–35; Số tia vây ngực: 14–15.[5]

Sinh thái

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. dumeriliisan hô, rong tảo, hải miên, cầu gainhuyễn thể. Loài này thường sống đơn độc hoặc thành đôi.[4]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

C. dumerilii là loài cá cảnh được bán thương mại, cũng có thể được bán ở các chợ cá tại một số quốc gia nhiệt đới.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Matsuura, K. & Motomura, H. (2017) [2016]. Cantherhines dumerilii. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T69922228A115474540. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-1.RLTS.T69922228A70010085.en. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2024.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2024). “Order Tetraodontiformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  4. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cantherhines dumerilii trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  5. ^ J. Barry Hutchins (2022). “Monacanthidae”. Trong Phillip C. Heemstra; E. Heemstra; David A. Ebert; W. Holleman; John E. Randall (biên tập). Coastal fishes of the western Indian Ocean (tập 5) (PDF). South African Institute for Aquatic Biodiversity. tr. 433-434.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)