Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023
Chi tiết giải đấu | |
---|---|
Các quốc gia chủ nhà | Philippines Nhật Bản Indonesia |
Ngày diễn ra | 25 tháng 8 – 10 tháng 9 |
Chính thức khai mạc bởi | Bongbong Marcos[3] Joko Widodo[4] Fumio Kishida |
Số đội | 32 (từ 4 liên đoàn) |
Địa điểm | 5[a] (trong 5 thành phố chủ nhà) |
Vị trí cuối cùng | |
Vô địch | Đức (1 chức vô địch) |
Á quân | Serbia |
Hạng ba | Canada |
Hạng tư | Hoa Kỳ |
Thống kê giải đấu | |
Tổng số trận | 92 |
Tham dự | 700.665 (7.616 mỗi trận) |
Cầu thủ xuất sắc nhất | Dennis Schröder |
Ghi bàn cao nhất | Luka Dončić (27 điểm/trận) |
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 (tiếng Anh: 2023 FIBA Basketball World Cup, tiếng Nhật: FIBAバスケットボールワールドカップ2023, tiếng Indonesia: Piala Dunia Bola Basket FIBA 2023) là giải đấu thứ 19 của Giải vô địch bóng rổ thế giới dành cho các đội tuyển bóng rổ nam do Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế tổ chức. Đây là giải đấu thứ hai có 32 đội tham dự và lần đầu tiên được đăng cai bởi 3 quốc gia – Philippines, Nhật Bản và Indonesia[5] – bắt đầu từ ngày 25 tháng 8 và kết thúc vào ngày 10 tháng 9 năm 2023.[6]
Đây là lần đầu tiên giải đấu được đăng cai tại Indonesia, và là lần thứ hai với Philippines và Nhật Bản – lần lượt từng đăng cai vào các giải đấu năm 1978 và năm 2006. Đây là một trong ba kỳ World Cup liên tiếp được đăng cai tại châu Á sau Trung Quốc tại giải đấu năm 2019 và tiếp theo là Qatar tại giải đấu năm 2027, và là giải đấu đầu tiên trong lịch sử có một đội chủ nhà không vượt qua vòng loại.[7] Giải đấu đã phá kỷ lục về số lượng khán giả đến sân khi ở trận ra quân giữa trận đấu giữa Cộng hòa Dominica và Philippines có 38.115 khán giả đến sân, phá vỡ kỷ lục trước đó là 32.616 khán giả tại trận chung kết của giải đấu năm 1994 diễn ra trên đất Canada.[8]
Giải đấu được đánh dấu là vòng loại cho Thế vận hội Mùa hè 2024, với hai đội tuyển xuất sắc nhất đến từ châu Mỹ và châu Âu, và đội tuyển xuất sắc nhất đến từ châu Phi, châu Á và châu Đại Dương, vượt qua vòng loại cùng với đội chủ nhà Pháp.
Đức với thành tích toàn thắng kể từ đầu giải đã giành chức vô địch đầu tiên của giải đấu sau khi đè bẹp Serbia với tỷ số 83–77 ở trận chung kết, đồng thời cũng là chức vô địch đầu tiên trong lịch sử bóng rổ nước Đức.[9] Đối với Serbia, đây là lần thứ hai trong ba giải đấu gần nhất họ giành ngôi Á quân của giải đấu, sau trận chung kết của giải đấu năm 2014. Canada giành tấm huy chương đồng của giải đấu sau khi đánh bại Hoa Kỳ với tỷ số 127–118.[10]
Trong số các đội lần đầu tiên tham dự giải đấu (Latvia, Nam Sudan, Gruzia và Cabo Verde), thì Latvia gây chấn động khi lọt vào top 5 của giải đấu. Đồng chủ nhà Nhật Bản lần đầu tiên giành vé trực tiếp tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 sau 48 năm chờ đợi với tư cách là đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất châu Á, trong khi Philippines giành vé tham dự giải đấu vòng loại môn bóng rổ tại Thế vận hội Mùa hè 2024.
Tây Ban Nha là nhà đương kim vô địch của giải đấu, sau khi đánh bại Argentina với tỷ số 95–75 tại trận chung kết của giải đấu năm 2019, nhưng đã không thể bảo vệ thành công chức vô địch sau khi để thua hai trận đấu liên tiếp với Latvia và Canada, qua đó kết thúc giải đấu với vị trí thứ 9 chung cuộc.[11] Hoa Kỳ, đương kim vô địch Thế vận hội Mùa hè và cũng là đội tuyển giàu thành tích nhất giải đấu, đã có giải đấu thứ hai liên tiếp không giành huy chương nào.
Lựa chọn chủ nhà
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 7 tháng 6 năm 2016, Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế đã phê duyệt quy trình đấu thầu cho Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023.[12]
Các cuộc đấu thầu của các liên đoàn thành viên cũng được Hội đồng Trung ương của FIBA chấp thuận bắt đầu từ giải đấu năm 2023 và không hạn chế đối với một liên đoàn đã đăng cai giải đấu trước đó để đấu thầu quyền đăng cai cho Giải vô địch bóng rổ thế giới.[12]
Vào ngày 1 tháng 6 năm 2017, FIBA đã lập danh sách các ứng cử viên cho việc đấu thầu để đăng cai giải đấu:
- Argentina / Uruguay
- Philippines / Nhật Bản / Indonesia
- Nga (rút lui)
- Thổ Nhĩ Kỳ (rút lui)
Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã rút khỏi cuộc đấu thầu, chỉ còn lại 2 liên minh: Philippines–Nhật Bản–Indonesia và Argentina–Uruguay tham gia cuộc đua giành quyền đăng cai, đồng thời đánh dấu kỳ World Cup đầu tiên được tổ chức tại nhiều quốc gia.
Kết quả bầu chọn
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 9 tháng 12 năm 2017, sau khi liên minh Argentina–Uruguay rút khỏi cuộc đua đăng cai, FIBA quyết định Philippines–Nhật Bản–Indonesia đã thắng thầu và giành quyền đăng cai giải đấu[13][14] sau khi FIBA trao quyền đăng cai thông qua một cuộc bỏ phiếu nhất trí.[15]
Liên minh quốc gia | Số phiếu bầu |
---|---|
Philippines / Nhật Bản / Indonesia | Nhất trí |
Argentina / Uruguay | Rút lui |
Các đội tuyển
[sửa | sửa mã nguồn]Vòng loại
[sửa | sửa mã nguồn]Với tư cách là hai đội chủ nhà của giải đấu, Philippines và Nhật Bản được đặc cách tham dự giải đấu khi họ được trao quyền đăng cai chung với Indonesia. Tuy nhiên, suất đăng cai vòng chung kết của Indonesia phải có điều kiện vì FIBA muốn đội tuyển quốc gia Indonesia có năng lực thi đấu vào năm 2021 nên bắt buộc Indonesia phải vượt qua vòng loại hoặc tiến vào top 8 đội mạnh nhất (tức là phải vào đến tứ kết) tại Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 (bị hoãn từ năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19). Indonesia tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 với tư cách là chủ nhà, và đã vượt qua giai đoạn vòng bảng với vị trí thứ ba (trong bảng đấu có Úc, Jordan và Ả Rập Xê Út), nhưng ở vòng play-off (tức vòng 12 đội), họ để thua Trung Quốc với tỷ số 58–108, do đó họ không vượt qua được vòng loại của giải đấu, tan giấc mộng lần đầu tiên ra mắt đấu trường thế giới của họ ngay trên sân nhà.[16][17][18][19][20][21] Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử các kỳ World Cup có một đội chủ nhà không vượt qua được vòng loại.
80 đội tuyển thuộc 4 khu vực của FIBA tham dự vòng loại của giải đấu sau khi đã vượt qua vòng loại của các giải đấu thuộc các cấp độ châu lục (Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2021, Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2022, Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022, Giải vô địch bóng rổ châu Âu 2022). Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, các đội không vượt qua vòng loại châu lục sẽ phải tham dự vòng sơ loại tại các khu vực nói trên. Đối với khu vực châu Á/châu Đại Dương và châu Phi, các đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Phi và Giải vô địch bóng rổ châu Á sẽ tham dự vòng loại ở cả hai châu lục này. Trận đấu đầu tiên của vòng loại diễn ra vào ngày 25 tháng 11 năm 2021 tại Minsk (Belarus) giữa Belarus và Thổ Nhĩ Kỳ tại vòng loại khu vực châu Âu. Buổi lễ bốc thăm vòng loại sẽ diễn ra tại tòa nhà Patrick Baumann tại Mies, Thụy Sĩ vào ngày 31 tháng 8 năm 2021.[22]
Vòng loại thứ nhất của vòng loại các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương sẽ có 16 đội, trong khi châu Âu có 32 đội tham dự. Các đội thi đấu ở nhóm A được chia thành các bảng đấu có 4 đội, thi đấu theo thể thức thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, thi đấu trên sân nhà – sân khách. 3 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé vào vòng loại thứ hai, các đội được chia thành 10 bảng, bao gồm 4 bảng đấu thuộc khu vực châu Âu và các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương, mỗi khu vực 2 bảng đấu. Các đội vẫn sẽ giữ nguyên số điểm mình có được từ vòng 1 và sẽ gặp 3 đội tuyển còn lại ở trong các bảng đấu khác vẫn theo thể thức thi đấu trên sân nhà – sân khách. 30 đội tuyển xuất sắc nhất sẽ giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, cùng với 2 đội đồng chủ nhà Philippines và Nhật Bản.
Danh sách 32 đội tuyển tham dự giải đấu được công bố vào ngày 27 tháng 2 năm 2023 sau khi hoàn thành giai đoạn thứ 6 của vòng loại.
Các đội tuyển đã vượt qua vòng loại
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 28 tháng 8 năm 2022, Phần Lan[23] và Bờ Biển Ngà[24] lần lượt trở thành đội tuyển đầu tiên của khu vực châu Âu và châu Phi, đồng thời trở thành hai đội tuyển đầu tiên trên thế giới giành vé tham dự giải đấu. Vài ngày sau, New Zealand và Liban trở thành hai đội tuyển đầu tiên ở khu vực châu Á ngoài Philippines và Nhật Bản giành vé tham dự giải đấu. Phần Lan đã có lần thứ hai tham dự giải đấu sau lần đầu tiên góp mặt tại giải đấu năm 2014 được tổ chức tại Tây Ban Nha. Vào ngày 10 tháng 11 năm 2023, Canada trở thành đội tuyển đầu tiên ở khu vực châu Mỹ giành vé tham dự giải đấu.[25]
Bên cạnh Phần Lan, Slovenia, Ai Cập và México trở lại World Cup kể từ giải đấu năm 2014 sau khi họ không vượt qua vòng loại giải đấu năm 2019 trên đất Trung Quốc.[26][27]
Liban trở lại World Cup kể từ giải đấu năm 2010 tại Thổ Nhĩ Kỳ,[28] trong khi Gruzia, Latvia và Nam Sudan làm nên lịch sử khi có lần đầu tiên tham dự giải đấu.[29][30][31] Cabo Verde cũng làm nên lịch sử khi có lần đầu tiên tham dự giải đấu, trở thành quốc gia có diện tích nhỏ nhất có đại diện tham dự giải đấu.[32]
Brasil và Hoa Kỳ trở thành hai đội tuyển không vắng mặt bất kỳ giải đấu nào kể từ lần đầu tiên giải đấu được tổ chức vào năm 1950.
Vài ngày trước khi giai đoạn thứ hai của vòng loại diễn ra, tại vòng loại khu vực châu Á, Hàn Quốc đã rút lui khỏi giải đấu do có một số cầu thủ của họ, dự kiến sẽ tham dự vòng loại, có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19.[33] Hiệp hội Bóng rổ Hàn Quốc đã kháng cáo lên FIBA về việc rút khỏi vòng loại của họ, nhưng bị FIBA từ chối.[34] Kết quả là Hàn Quốc không vượt qua vòng loại sau khi tham dự hai giải đấu liên tiếp vào các năm 2014 và 2019. Nga, một trong 32 đội tuyển đã tham dự giải đấu năm 2019 đã bị cấm tham dự các giải đấu do FIBA tổ chức, bao gồm World Cup và vòng loại, do ảnh hưởng của cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina vào tháng 2 năm 2022.[35] Belarus cũng bị cấm tham dự giải đấu, và tất cả các kết quả trước đó của họ ở vòng loại đều bị hủy bỏ.[36]
Sau khi giành ngôi á quân tại giải đấu năm 2019 tại Trung Quốc, 9 kỳ tham dự World Cup liên tiếp kể từ giải đấu năm 1986 tại Tây Ban Nha, nhà đương kim vô địch Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2022 Argentina không vượt qua vòng loại sau khi đã để thua Cộng hòa Dominica với tỷ số 75–79 ngay trên sân nhà.[37] Chủ nhà và á quân của giải đấu năm 2010, Thổ Nhĩ Kỳ đã có lần đầu tiên không vượt qua vòng loại kể từ giải đấu năm 1998. Bên cạnh Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, một số đội tuyển châu Phi khác, điển hình là nhà đương kim vô địch Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2 lần liên tiếp Tunisia, Sénégal và Nigeria - đội tuyển số 1 châu Phi lúc đó, và cũng là đại diện châu Phi duy nhất tham dự Thế vận hội Mùa hè 2020, đều phải trở thành khán giả của giải đấu này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc và Ba Lan là những đội tuyển đã tham dự giải đấu năm 2019 không vượt qua vòng loại giải đấu này.
Các đội tuyển đã vượt qua vòng loại, được phân chia theo khu vực, với số được đặt trong dấu ngoặc đơn chính là vị trí hiện tại của họ trên bảng xếp hạng bóng rổ nam FIBA trước khi giải đấu diễn ra:[38]
|
|
|
|
|
Lễ bốc thăm
[sửa | sửa mã nguồn]Buổi lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 29 tháng 4 năm 2023[39] tại Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon, Philippines,[40] vào lúc 19 giờ 30 phút, theo Giờ Philippines.[41]
Đại sứ toàn cầu của giải đấu Luis Scola (người Argentina) và nhà vô địch NBA 2011 Dirk Nowitzki (người Đức) điều hành buổi lễ bốc thăm cùng với các đại sứ giải đấu của ba nước chủ nhà: Thành viên của Philippines tại giải đấu năm 2014 Lewis Alfred Vasquez Tenorio và Hoa hậu Hoàn vũ 2018 Catriona Gray (người Philippines), cựu thành viên của đội tuyển quốc gia Nhật Bản và chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Levanga Hokkaido Orimo Takehiro (người Nhật Bản) và nam diễn viên Raffi Ahmad (người Indonesia).[42] Ca sĩ và rapper Saweetie (người Hoa Kỳ) và 2 nghệ sĩ người Philippines Billy Cartwood và Sarah Geronimo là những người biểu diễn trong buổi lễ bốc thăm.[42]
Trong buổi lễ bốc thăm, 32 đội tuyển sẽ được chia vào 8 nhóm hạt giống dựa theo Bảng xếp hạng FIBA được công bố vào tháng 2 năm 2023. Philippines rơi vào nhóm hạt giống số 1 do là chủ nhà đăng cai các trận đấu thuộc vòng đấu cuối cùng của giải đấu, cùng với 3 đội tuyển có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng FIBA được công bố vào tháng 2 năm 2023, bao gồm: Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Úc.[43] 28 đội tuyển còn lại sẽ được phân chia thành các nhóm hạt giống từ Nhóm 2 đến Nhóm 8 dựa theo bảng xếp hạng FIBA công bố vào tháng 2 năm 2023, cùng với đội đồng chủ nhà Nhật Bản sẽ rơi vào nhóm hạt giống số 7.
Hơn nữa, ba nước chủ nhà có quyền chọn mỗi đội tuyển thi đấu ở vòng bảng. Hoa Kỳ được lựa chon thi đấu tại Philippines, Slovenia thi đấu tại Nhật Bản, Canada thi đấu tại Indonesia.[44] FIBA trích dẫn cho việc "lý do thương mại" mà họ cho rằng không ảnh hưởng tới buổi lễ bốc thăm.[45]
Buổi lễ bốc thăm sẽ chia làm 2 cụm nhóm hạt giống, mỗi cụm 4 nhóm hạt giống. Các đội ở các nhóm hạt giống 1, 3, 5, 7 sẽ thi đấu tại các bảng A, C, E, G. Các đội ở các nhóm hạt giống 2, 4, 6, 8 sẽ thi đấu tại các bảng B, D, F, H.[43]
Các đội tuyển đến từ các liên đoàn châu Phi, châu Mỹ, châu Á và châu Đại Dương sẽ không được gặp nhau ở giai đoạn vòng bảng.[43] Ngoài ra, các bảng đấu đều có ít nhất 1 đại diện châu Âu góp mặt, nhưng không vượt quá tối đa là 2 đại diện.[43] Như vậy, có thể biết rằng Montenegro và México, Tây Ban Nha và Brasil sẽ nằm cùng một bảng đấu vì Hy Lạp, Đức và Ý sẽ không cùng bảng với Tây Ban Nha.[43]
Nhóm hạt giống
[sửa | sửa mã nguồn]Các nhóm hạt giống đã được xác nhận vào ngày 21 tháng 4 năm 2023.[43]
- Các bảng A, C, E và G
Nhóm 1 | Nhóm 3 | Nhóm 5 | Nhóm 7 |
---|---|---|---|
Philippines (40) (đồng chủ nhà) (Bảng A) Tây Ban Nha (1) Hoa Kỳ (2) (Bảng C) Úc (3) |
Hy Lạp (9) Ý (10) Đức (11) Brasil (13) |
Iran (22) Cộng hòa Dominica (23) Phần Lan (24) New Zealand (26) |
Jordan (33) Nhật Bản (36) (đồng chủ nhà) (Bảng E) Angola (41) Bờ Biển Ngà (42) |
- Các bảng B, D, F và H
Nhóm 2 | Nhóm 4 | Nhóm 6 | Nhóm 8 |
---|---|---|---|
Pháp (5) Serbia (6) Slovenia (7) (Bảng F) Litva (8) |
Canada (15) (Bảng H) Venezuela (17) Montenegro (18) Puerto Rico (20) |
Trung Quốc (27) Latvia (29) México (31) Gruzia (32) |
Liban (43) Ai Cập (55) Nam Sudan (62) Cabo Verde (64) |
Cầu thủ
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023, mỗi đội công bố danh sách gồm 12 cầu thủ; mỗi đội có thể chọn một cầu thủ nhập tịch theo quy tắc của FIBA từ danh sách các đội.[46][47][48][49]
Địa điểm thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]
| ||
Các địa điểm chủ nhà của giải đấu |
| ||
Các địa điểm tổ chức giải đấu tại Khu vực Đại đô thị Manila
|
Giải đấu diễn ra tại 5 địa điểm thuộc 5 thành phố riêng biệt thuộc 3 quốc gia chủ nhà.[a] Ba thành phố ở Khu vực Đại đô thị Manila đăng cai 4 bảng đấu ở giai đoạn vòng bảng, 2 bảng đấu ở vòng 2, và giai đoạn cuối cùng, bắt đầu từ trận tứ kết. Okinawa và Jakarta, mỗi thành phố đăng cai 2 bảng đấu ở giai đoạn vòng bảng và 1 bảng đấu ở vòng 2. Philippines đăng cai 4 bảng đấu gồm 16 đội, mỗi bảng 4 đội. Nhật Bản và Indonesia, mỗi quốc gia đăng cai 2 bảng đấu, gồm 8 đội, mỗi bảng 4 đội.
Tại Philippines, ba địa điểm được lựa chọn để đăng cai tổ chức các trận đấu thuộc giải đấu, bao gồm: SM Mall of Asia Arena ở Pasay, Đấu trường Araneta ở Thành phố Quezon và Philippine Arena ở Bocaue, Bulacan. Cả 3 địa điểm này đều từng tổ chức nhiều trận đấu của Philippines tại vòng loại các giải vô địch bóng rổ thế giới khu vực châu Á vào các năm 2019 và 2023. SM Mall of Asia Arena đã từng đăng cai Giải vô địch bóng rổ châu Á 2013, Vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Manila và nội dung thi đấu môn bóng rổ 5x5 tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019. Đấu trường Araneta đã từng đăng cai Giải vô địch bóng rổ thế giới 1978, còn Philippine Arena có sức chứa lên đến 55.000 chỗ ngồi và ban đầu sẵn sàng đăng cai các trận đấu thuộc vòng cuối cùng và trận chung kết của giải đấu. Nhà thi đấu này cũng từng đăng cai Giải vô địch bóng rổ 3x3 thế giới 2018 và lễ khai mạc của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019.
Tuy nhiên, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương FIBA vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, FIBA đã thông báo rằng SM Mall of Asia Arena sẽ thay cho Philippine Arena đăng cai các trận đấu thuộc vòng cuối cùng và trận chung kết của giải đấu do vấn đề về thời gian di chuyển, hậu cần và vận chuyển. Để đảm bảo việc sử dụng nhà thi đấu tổ chức các trận đấu thuộc giải đấu và phù hợp với giá thầu ban đầu, Philippine Arena đã tổ chức hai trận đấu khai mạc của Bảng A, giữa Angola gặp Ý và Cộng hòa Dominica gặp Philippines.[50][51]
Tại Nhật Bản, Nhà thi đấu Okinawa ở Thành phố Okinawa có sức chứa 10.000 chỗ ngồi và là sân nhà mới được xây dựng của Câu lạc bộ Ryukyu Golden Kings đang thi đấu tại Giải vô địch bóng rổ quốc gia Nhật Bản. Nhà thi đấu này cũng từng tổ chức các trận đấu giao hữu của đội bóng rổ nam Nhật Bản để chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 2020 ở Tokyo và nhiều trận đấu vòng loại châu Á Giải bóng rổ FIBA World Cup 2023 của Nhật Bản.
Còn tại Indonesia, Nhà thi đấu Istora Gelora Bung Karno ở Jakarta ban đầu được lựa chọn để làm địa điểm đăng cai cho giải đấu. Tuy nhiên, thành viên Hội đồng Trung ương FIBA lúc đó là Erick Thohir[b] cho rằng địa điểm này chỉ được phê duyệt đăng cai cho Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 (ban đầu được tổ chức vào năm 2021 nhưng bị hoãn sang năm 2022 do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19), giải đấu này cũng do thành phố đăng cai mà không được lựa chọn đăng cai cho giải đấu. Trong buổi lễ bốc thăm cho vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 diễn ra vào ngày 31 tháng 8 năm 2021 tại Mies (Thụy Sĩ), có người tiết lộ rằng một địa điểm mới được xây dựng nằm tại Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno sẽ được lựa chọn để đăng cai cho giải đấu.[52] Nhà thi đấu này được biết đến với tên gọi Nhà thi đấu Indonesia, với sức chứa lên đến 16.500 chỗ ngồi.[53][54]
Có một kế hoạch dự phòng để di chuyển địa điểm diễn ra các trận đấu từ Thành phố Okinawa (Nhật Bản) đến Vùng đô thị Manila (Philippines) trong trường hợp đề phòng các hiện tượng thời tiết xấu như bão, sấm sét, sóng thần...[55]
Các nhà thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Philippines | |||
---|---|---|---|
Philippine Arena (Bocaue, Bulacan) |
Đấu trường Araneta (Thành phố Quezon) |
SM Mall of Asia Arena (Pasay) | |
Sức chứa: 55,000[56] | Sức chứa: 15,000[57] (địa điểm đã được cải tạo[58]) |
Sức chứa: 15,000[59] (địa điểm đã được cải tạo[60]) | |
Indonesia | Nhật Bản | ||
Nhà thi đấu Indonesia (Jakarta) |
Nhà thi đấu Okinawa (Thành phố Okinawa) | ||
Sức chứa: 16,000[61] (địa điểm mới) |
Sức chứa: 10,000[62] (địa điểm mới) | ||
- ^ a b Về mục đích tiếp thị, có 3 thành phố chủ nhà – Manila (Philippines), Okinawa (Nhật Bản) và Jakarta (Indonesia). Tuy nhiên, có tới 2 trên 3 địa điểm thi đấu tại Philippines nằm ở Vùng đô thị Manila, riêng Philippine Arena nằm ở tỉnh Bulacan, cách Thủ đô Manila 6km về phía bắc.
- ^ Nay là Chủ tịch của Liên đoàn bóng đá Indonesia.
Địa điểm tập luyện và khách sạn đóng quân của các đội
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Philippines, các địa điểm tập luyện đã được lựa chọn cho các đội là Đấu trường Rizal Memorial và Nhà thi đấu Ninoy Aquino ở Manila, PhilSports Arena và Meralco Gym ở Pasig. Khách sạn Conrad Manila ở Pasay và Khách sạn Edsa Shangri-La, Manila ở Mandaluyong là những khách sạn đóng quân của các đội.[63]
Sự chuẩn bị của Philippines, Nhật Bản và Indonesia trước giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Lễ bàn giao
[sửa | sửa mã nguồn]Trong khuôn khổ Giải vô địch bóng rổ thế giới 2019 tại Trung Quốc, 3 nước chủ nhà đã cử đoàn đại diện đến giám sát giải đấu.[64] Đoàn cũng giám sát Đại hội của Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế và buổi lễ khai mạc.[65]
Buổi lễ bàn giao diễn ra trong thời gian nghỉ giữa giờ ở trận chung kết giữa Argentina và Tây Ban Nha tại Nhà thi đấu Ngũ Khỏa Tùng, Bắc Kinh, Trung Quốc chính thức bàn giao quyền đăng cai giải đấu từ Trung Quốc sang ba nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản và Indonesia. Thành viên Ban Chấp hành Trung ương của FIBA, Manny Pangilinan (Philippines), Mitsuya Yuko (Nhật Bản) và Erick Thohir (Indonesia) đã nhận được cờ FIBA từ Chủ tịch Hiệp hội Bóng rổ Trung Quốc Diêu Minh.[66] Các vị quan chức khác cũng tham dự buổi lễ bàn giao lúc đó là Chủ tịch FIBA lúc bấy giờ, Horacio Muratore (Argentina) và Đại sứ toàn cầu của Giải vô địch bóng rổ thế giới 2019 – cố danh thủ Kobe Bryant (Hoa Kỳ).
Ban điều hành Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023
[sửa | sửa mã nguồn]Trong buổi gặp mặt của Ban chấp hành FIBA vào ngày 31 tháng 1 năm 2020, Ủy viên Ủy ban Olympic quốc tế và Ban Chấp hành FIBA, Richard Carrión (Puerto Rico) được bầu làm Chủ tịch Ban điều hành của giải đấu. Giám đốc điều hành của FIBA khu vực Châu Đại Dương David Crocker cũng được bầu làm Giám đốc điều hành của giải đấu.[67] Cuộc họp đầu tiên của Ban điều hành được diễn ra vào tuần cuối cùng của tháng 5 năm 2020.[68]
Sự hỗ trợ của Chính phủ
[sửa | sửa mã nguồn]Indonesia
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 2 năm 2020, Bộ trưởng Bộ Thanh niên và Thể thao Indonesia Zainudin Amali đã tiết lộ kế hoạch xây dựng một nhà thi đấu mới ở Jakarta để phục vụ cho giải đấu, với sức chứa từ 15.000 đến 20.000 chỗ ngồi. Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã cấp giấy phép xây dựng,[69] với việc Chính phủ Indonesia tài trợ cho việc xây dựng nhà thi đấu mới để Indonesia đăng cai giải đấu.[70] Đó chính là Nhà thi đấu Indonesia, nằm trong Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno. Joko Widodo cũng chủ trì buổi lễ cất nóc Nhà thi đấu Indonesia vào ngày 13 tháng 1 năm 2023, dự kiến sẽ mở cửa đón khán giả vào tháng 6 năm 2023, 2 tháng trước khi giải đấu diễn ra.[71] Tổng thống Widodo và quyền Thống đốc Jakarta Hedu Budi Hartono chính thức cắt băng khánh thành Nhà thi đấu Indonesia vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.[72] Quỹ ngân sách 135 tỷ rupiah Indonesia được Chính phủ Indonesia cung cấp, thông qua Bộ Thanh niên và Thể thao Indonesia, cho Hiệp hội bóng rổ Indonesia và Ban Tổ chức giải đấu để Indonesia đăng cai giải đấu.[73]
Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 25 tháng 8 năm 2020, 3 năm trước khi giải đấu diễn ra, các quan chức Thành phố Okinawa đã tổ chức một buổi hội nghị chuyên đề về việc xây dựng một hệ thống có thể được chấp thuận cho quá trình chuẩn bị giải đấu. Ban tổ chức đăng cai giải đấu của thành phố được thành lập trong cùng sự kiện. Tham dự buổi lễ thành phố có Thị trưởng Thành phố Okinawa Kuwae Sachio, Chủ tịch Phòng Thương mại Thành phố Okinawa Miyazato Toshiyuki và Chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Ryukyu Golden Kings Kimura Tatsuro.[74]
Philippines
[sửa | sửa mã nguồn]Tổng thống Philippines Bongbong Marcos đã ký sắc lệnh hành chính vào ngày 27 tháng 3 năm 2023, quyết định thành lập một lực lượng đặc nhiệm liên ngành để đảm bảo an ninh cho việc đăng cai giải đấu của Philippines, cùng với sự tham gia của một số cơ quan bộ, ngành chính phủ. Lực lượng đặc nhiệm được chỉ đạo bởi Chủ tịch Ủy ban Thể thao Philippines Richard Bachmaan.[75] Ủy ban Thể thao Philippines đã phê duyệt cho việc chi ít nhất 800 triệu peso Philippines cho việc đăng cai tổ chức của Philippines.[76] Các lớp học ở các trường học công lập và các cơ quan chính phủ ở Vùng đô thị Manila và Bulacan sẽ được nghỉ làm, nghỉ học để phục vụ cho buổi lễ khai mạc giải đấu vào ngày 25 tháng 8 năm 2023.[77]
Các sự kiện thử nghiệm
[sửa | sửa mã nguồn]Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Nhà thi đấu Okinawa tổ chức "sự kiện tiền khai trương" từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2021, bao gồm các trận đấu trên sân nhà của Câu lạc bộ bóng rổ Ryukyu Golden Kings. Tất cả các hoạt động tại nhà thi đấu này bắt đầu từ tháng 6 năm 2021.[78]
Philippines
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 28 tháng 6 năm 2023, một sự kiện thử nghiệm được tổ chức bởi Liên đoàn bóng rổ Philippines bao gồm 8 đội tuyển đại học đến từ Hiệp hội Athletic Coliagiate Association và Hiệp hội Thể thao Đại học Philippines được tổ chức tại SM Mall of Asia Arena và Philippine Arena như sự mô phỏng cho nỗ lực đăng cai giải đấu của Philippines.[79][80]
Indonesia
[sửa | sửa mã nguồn]Một sự kiện thử nghiệm được tổ chức tại Nhà thi đấu Indonesia,[81] đó là Giải bóng rổ quốc tế Indonesia, diễn ra từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 8 năm 2023, với sự tham gia của 3 đội tuyển Indonesia, Syria và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.[82]
Các chương trình tình nguyện
[sửa | sửa mã nguồn]Chương trình Tình nguyện viên được Ban tổ chức giải đấu tại Philippines phát động vào ngày 30 tháng 11 năm 2022, chính thức mở hồ sơ đăng ký cho những ứng viên có nguyện vọng tham gia tình nguyện cho giải đấu.[83][84] Các chương trình tình nguyện viên khác cũng diễn ra tại Nhật Bản và Indonesia bắt đầu từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 11 tháng 3 năm 2023.[85][86]
Màn chạy đà của các đội tuyển trước giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Giải bóng rổ quốc tế Acropolls
[sửa | sửa mã nguồn]Giải đấu năm 2023 là giải đấu lần thứ 32 Giải bóng rổ quốc tế Acropolls được tổ chức. Các đội tuyển Serbia, Hy Lạp và Ý tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 8 đến 10 tháng 8 năm 2023 tại Athens, Hy Lạp.[87]
Siêu cúp bóng rổ
[sửa | sửa mã nguồn]Vào các ngày 12 và 13 tháng 8 năm 2023, các đội tuyển Đức, Canada, Trung Quốc và New Zealand sẽ tham dự giải đấu lần thứ 34 tại Hamburg, Đức.[88]
Giải đấu tại Trung Quốc
[sửa | sửa mã nguồn]Từ ngày 2 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023, Giải bóng rổ quốc tế Hà Nguyên được tổ chức tại thành phố Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc với sự tham gia của 3 đội tuyển Iran, Philippines và Sénégal.[89][90] Thành phố Thâm Quyến tổ chức Cúp bóng rổ Đoàn kết diễn ra từ ngày 20 đến 21 tháng 8 năm 2023 với sự tham dự của Brasil, Trung Quốc, Serbia, New Zealand và Ý.[91]
Chuyến du đấu mùa hè của Pháp
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 26 tháng 2 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Pháp xác nhận Pháp sẽ thi đấu các trận đấu của nhiều giải đấu khác nhau để chuẩn bị cho giải đấu – gặp các đội Tunisia, Argentina, Montenegro, Litva và Venezuela.[92][93]
Các trận đấu giao hữu quốc tế của Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Nhật Bản sẽ thi đấu 2 trận giao hữu với Đài Bắc Trung Hoa vào các ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2023 tại Hamamatsu, 2 trận giao hữu với New Zealand vào các ngày 8 và 9 tháng 7 năm 2023 tại Thành phố Ōta. Giải đấu Khởi động có sự tham gia của 4 đội tuyển Nhật Bản, Angola, Pháp và Slovenia.[94]
Giải đấu Khởi động ở Melbourne
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 19 tháng 5 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Úc thông báo rằng từ ngày 14 đến 17 tháng 8 năm 2023, các đội tuyển Úc, Brasil, Venezuela và Nam Sudan sẽ tham dự giải đấu, được tổ chức tại Melbourne.[95]
Giải đấu tại Tây Ban Nha
[sửa | sửa mã nguồn]Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Liên đoàn bóng rổ Tây Ban Nha (1923–2023), có 2 giải đấu được tổ chức tại 2 thành phố của Tây Ban Nha là Málaga và Granada. Tây Ban Nha sẽ thi đấu cả 2 giải đấu nói trên. Giải đấu đầu tiên tại Málaga từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 8 năm 2023, cùng với sự tham dự của Hoa Kỳ và Slovenia. Giải đấu thứ hai tại Granada từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 8 năm 2023, cùng với sự tham dự của Argentina và Canada.[96]
Cúp Tòa thị chính Tbilisi
[sửa | sửa mã nguồn]Các đội tuyển Gruzia, Iran, Jordan và Montenegro tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 12 đến 13 tháng 8 năm 2023 tại Tbilisi, Gruzia.[97]
Cúp Trentino
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 7 tháng 6 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Ý xác nhận giải đấu Khởi động này có sự góp mặt của các đội tuyển Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Cabo Verde và Trung Quốc tham dự giải đấu, diễn ra từ ngày 4 đến 5 tháng 8 năm 2023 tại Trento, Ý. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tham dự vòng sơ loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024, giải đấu mà họ đăng cai một trong hai giải đấu tại vòng loại khu vực châu Âu.[98]
Các trận đấu của Hoa Kỳ tại Abu Dhabi, UAE
[sửa | sửa mã nguồn]Trong một buổi họp báo tại Berlin, Đức vào ngày 8 tháng 3 năm 2023, Liên đoàn bóng rổ Hoa Kỳ xác nhận rằng sẽ hợp tác với Sở Văn hóa và Du lịch Abu Dhabi, UAE, trong đó Hoa Kỳ sẽ đối đầu với Đức và Hy Lạp từ ngày 18 đến 20 tháng 8 năm 2023 tại Abu Dhabi, UAE.[99][100]
Các trận đấu khác
[sửa | sửa mã nguồn]Các trận đấu giao hữu quốc tế dự kiến được diễn ra nhằm khởi động cho giải đấu.
Slovenia và Hy Lạp sẽ thi đấu 2 trận giao hữu vào các ngày 2 và 4 tháng 8 năm 2023 tại Ljubljana, Slovenia và Athens, Hy Lạp.[101] Tây Ban Nha và Venezuela sẽ thi đấu giao hữu vào ngày 4 tháng 8 năm 2023 tại Madrid, Tây Ban Nha.[102] Đức và Canada sẽ thi đấu giao hữu vào ngày 9 tháng 8 năm 2023 tại Berlin, Đức.[103] Một số đội tuyển khác cũng đã thành lập các trại tập huấn khác nhau, bao gồm đội chủ nhà Philippines, với những chuyến tập huấn tại Estonia và Litva vào tháng 6 năm 2023,[104] khi họ đấu giao hữu với Phần Lan và các đội trẻ của Estonia, Ukraina và đội tuyển chọn chuyên nghiệp của Litva.[105][106]
Thể thức thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Tương tự như giải đấu năm 2019, giải đấu sẽ thi đấu với 3 giai đoạn - giai đoạn vòng bảng, vòng 2 và vòng cuối cùng. Ở giai đoạn vòng bảng, 32 đội tuyển sẽ được chia thành 8 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội (A–H), các đội cùng bảng sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm. Hai đội đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn hai đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí từ 17 đến 32. Ở vòng 2, sẽ có 4 bảng đấu (I–L) mỗi bảng 4 đội đi tiếp từ giai đoạn vòng bảng, 2 đội cùng bảng ở giai đoạn vòng bảng không gặp nhau ở vòng này, họ sẽ gặp 2 đội tuyển xuất sắc nhất ở bảng đấu khác (ví dụ như 2 đội ở bảng A gặp 2 đội ở bảng B) và gặp nhau một lần. Hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé tham dự vào vòng cuối cùng. Các đội bị loại ở tứ kết sẽ gặp nhau tại vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí thứ 5 đến thứ 8.[107]
Tổ trọng tài
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 16 tháng 8 năm 2023, FIBA công bố danh sách 44 trọng tài tham gia điều hành các trận đấu cho giải đấu.[108] Trong số 44 trọng tài, Latvia, Puerto Rico và Hoa Kỳ, mỗi quốc gia đóng góp 3 trọng tài.
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử giải đấu, trọng tài nữ sẽ tham gia điều hành trận đấu. Các trọng tài người Hoa Kỳ Amy Bonner, Blanca Burns và Jenna Reneau trở thành những trọng tài nữ đầu tiên tham gia điều hành các trận đấu tại các giải đấu bóng rổ quốc tế dành cho nam. Amy Borner từng tham gia điều hành các trận đấu tại 3 kỳ World Cup nữ liên tiếp vào các năm 2014, 2018[109] và 2022. Blanca Burns và Jenna Reneau từng tham gia điều hành các trận đấu tại vòng loại khu vực châu Mỹ.
Trọng tài người Pháp Yohan Rosso, một trong ba trọng tài tham gia điều hành trận chung kết giải đấu năm 2019[110] đã được lựa chọn.
Danh sách trọng tài
[sửa | sửa mã nguồn]- Juan Fernández
- Leandro Zalazar
- Scott Beker
- Ademir Zurapović
- Guilherme Locatelli
- Martin Horozov
- Matthew Kallio
- Waseem Husainy
- Carlos Vélez
- Martin Vulić
- Carlos Peralta
- Kristian Paez
- Wael Mostafa
- Yohan Rosso
- Georgios Poursanidis
- Péter Praksch
- Manuel Attard
- Manuel Mazzoni
- Ahmed Al-Shuwaili
- Daigo Urushima
- Takaki Kato
- Yevgeniy Mikheyev
- Andris Aunkrogers
- Gatis Saliņš
- Mārtiņš Kozlovskis
- Rabah Noujaim
- Gvidas Gedvilas
- Omar Bermúdez
- Julio Anaya
- Wojciech Liszka
- Johnny Batista
- Jorge Vázquez
- Roberto Vázquez
- Aleksandar Glišić
- Boris Krejič
- Luis Castillo
- Antonio Conde
- Park Kyoung-jin
- Kerem Baki
- Amy Bonner
- Blanca Burns
- Jenna Reneau
- Andrés Bartel
- Daniel García
Lễ khai mạc
[sửa | sửa mã nguồn]Philippines
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Philippines, lễ khai mạc của giải đấu sẽ diễn ra vào tối ngày 25 tháng 8 năm 2023 tại Philippine Arena, Bocaue, Bulacan, với 2 trận đấu đầu tiên của bảng A (Angola gặp Ý và Cộng hòa Dominica gặp Philippines).[111] Sự kiện này sẽ có màn trình diễn của nữ ca sĩ người Philippines Sarah Geronimo, ban nhạc Philippines The Dawn và Ben&Ben[112] và nhóm nhạc nam Alamat.[113] Tổng thống Philippines Bongbong Marcos ban đầu dự định sẽ thực hiện nghi thức ném bóng tại Bocaue, tuy nhiên ông đã không thể thực hiện được sau khi trễ giờ đến nhà thi đấu.[114]
Indonesia
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Indonesia, lễ khai mạc của giải đấu sẽ diễn ra vào tối cùng ngày tại Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta với trận đấu đầu tiên của bảng H giữa Canada và Pháp. Sự kiện này sẽ có màn trình diễn của nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Indonesia Agnez Mo.[115] Tổng thống Indonesia Joko Widodo dự định sẽ tham dự trực tiếp lễ khai mạc, nhưng ông không thể tham dự. Tuy nhiên, ông đã có một bài phát biểu và tuyên bố khai mạc giải đấu qua một đoạn video ngắn.[116]
Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Buổi lễ khai mạc cũng diễn ra tại Nhà thi đấu Okinawa, Nhật Bản đã trình diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc của Nhật Bản. Buổi lễ tại Thành phố Okinawa diễn ra trước trận đấu bảng E giữa Đức và Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã tiến hành nghi thức ném bóng trong trận đấu giữa Đức và Nhật Bản.[117]
Giai đoạn vòng bảng
[sửa | sửa mã nguồn]Tiêu chí xếp hạng
[sửa | sửa mã nguồn]1. Số điểm các đội kiếm được thông qua kết quả các trận đấu:[118]
- Thắng: 2 điểm
- Thua: 1 điểm
- Thua do mặc định: 1 điểm, với tỷ số chung cuộc là 2–0 cho đối thủ của đội mặc định nếu đội sau không vượt lên dẫn trước hoặc nếu tỷ số hòa, hoặc tỷ số trong khoảng thời gian bù giờ nếu họ đang dẫn trước.
- Thua do bị xử thua: 0 điểm, với tỷ số chung cuộc là 20–0 cho đối thủ của đội thua cuộc.
2. Lịch sử đối đầu thông qua hình thức tính điểm ở trên.
3. Sự khác biệt về điểm số trong trận đấu mà hai đội hòa nhau.
4. Điểm số trong các trận đấu mà hai đội hòa nhau.
5. Sự khác biệt về điểm số trong tất cả các trận đấu.
6. Điểm số nhận được trong tất cả các trận đấu.
Bảng A
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm:
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Cộng hòa Dominica | 3 | 3 | 0 | 249 | 230 | +19 | 6 | Vòng 2 |
2 | Ý | 3 | 2 | 1 | 253 | 237 | +16 | 5 | |
3 | Angola | 3 | 1 | 2 | 214 | 226 | −12 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Philippines (H) | 3 | 0 | 3 | 234 | 257 | −23 | 3 |
25 tháng 8 năm 2023 | |||||
Angola | 67–81 | Ý | |||
Cộng hòa Dominica | 87–81 | Philippines | |||
27 tháng 8 năm 2023 | |||||
Philippines | 70–80 | Angola | |||
Ý | 82–87 | Cộng hòa Dominica | |||
29 tháng 8 năm 2023 | |||||
Angola | 67–75 | Cộng hòa Dominica | |||
Philippines | 73–80 | Ý |
Bảng B
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Serbia | 3 | 3 | 0 | 314 | 223 | +91 | 6 | Vòng 2 |
2 | Puerto Rico | 3 | 2 | 1 | 285 | 279 | +6 | 5 | |
3 | Nam Sudan | 3 | 1 | 2 | 268 | 285 | −17 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Trung Quốc | 3 | 0 | 3 | 221 | 301 | −80 | 3 |
26 tháng 8 năm 2023 | |||||
Nam Sudan | 96–101 (OT) | Puerto Rico | |||
Serbia | 105–63 | Trung Quốc | |||
28 tháng 8 năm 2023 | |||||
Trung Quốc | 69–89 | Nam Sudan | |||
Puerto Rico | 77–94 | Serbia | |||
30 tháng 8 năm 2023 | |||||
Nam Sudan | 83–115 | Serbia | |||
Trung Quốc | 89–107 | Puerto Rico |
Bảng C
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Hoa Kỳ | 3 | 3 | 0 | 318 | 215 | +103 | 6 | Vòng 2 |
2 | Hy Lạp | 3 | 2 | 1 | 256 | 254 | +2 | 5 | |
3 | New Zealand | 3 | 1 | 2 | 241 | 269 | −28 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Jordan | 3 | 0 | 3 | 220 | 297 | −77 | 3 |
26 tháng 8 năm 2023 | |||||
Hoa Kỳ | 99–72 | New Zealand | |||
Jordan | 71–92 | Hy Lạp | |||
28 tháng 8 năm 2023 | |||||
Hy Lạp | 81–109 | Hoa Kỳ | |||
New Zealand | 85–77 (OT) | Jordan | |||
30 tháng 8 năm 2023 | |||||
Hoa Kỳ | 110–62 | Jordan | |||
Hy Lạp | 83–74 | New Zealand |
Bảng D
[sửa | sửa mã nguồn]Venue: SM Mall of Asia Arena, Pasay
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Litva | 3 | 3 | 0 | 280 | 204 | +76 | 6 | Vòng 2 |
2 | Montenegro | 3 | 2 | 1 | 251 | 236 | +15 | 5 | |
3 | Ai Cập | 3 | 1 | 2 | 241 | 254 | −13 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | México | 3 | 0 | 3 | 209 | 287 | −78 | 3 |
25 tháng 8 năm 2023 | |||||
Ai Cập | 67–93 | Litva | |||
México | 71–91 | Montenegro | |||
27 tháng 8 năm 2023 | |||||
Montenegro | 89–74 | Ai Cập | |||
Litva | 96–66 | México | |||
29 tháng 8 năm 2023 | |||||
Ai Cập | 100–72 | México | |||
Montenegro | 71–91 | Litva |
Bảng E
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Đức | 3 | 3 | 0 | 267 | 220 | +47 | 6 | Vòng 2 |
2 | Úc | 3 | 2 | 1 | 289 | 246 | +43 | 5 | |
3 | Nhật Bản (H) | 3 | 1 | 2 | 250 | 278 | −28 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Phần Lan | 3 | 0 | 3 | 235 | 297 | −62 | 3 |
25 tháng 8 năm 2023 | |||||
Đức | 81–63 | Nhật Bản | |||
Phần Lan | 72–98 | Úc | |||
27 tháng 8 năm 2023 | |||||
Úc | 82–85 | Đức | |||
Nhật Bản | 98–88 | Phần Lan | |||
29 tháng 8 năm 2023 | |||||
Đức | 101–75 | Phần Lan | |||
Úc | 109–89 | Nhật Bản |
Bảng F
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Slovenia | 3 | 3 | 0 | 280 | 229 | +51 | 6 | Vòng 2 |
2 | Gruzia | 3 | 2 | 1 | 222 | 207 | +15 | 5 | |
3 | Cabo Verde | 3 | 1 | 2 | 218 | 252 | −34 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Venezuela | 3 | 0 | 3 | 219 | 251 | −32 | 3 |
26 tháng 8 năm 2023 | |||||
Slovenia | 100–85 | Venezuela | |||
Cabo Verde | 60–85 | Gruzia | |||
28 tháng 8 năm 2023 | |||||
Gruzia | 67–88 | Slovenia | |||
Venezuela | 75–81 | Cabo Verde | |||
30 tháng 8 năm 2023 | |||||
Slovenia | 92–77 | Cabo Verde | |||
Gruzia | 70–59 | Venezuela |
Bảng G
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Tây Ban Nha | 3 | 3 | 0 | 275 | 207 | +68 | 6 | Vòng 2 |
2 | Brasil | 3 | 2 | 1 | 267 | 232 | +35 | 5 | |
3 | Bờ Biển Ngà | 3 | 1 | 2 | 212 | 252 | −40 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Iran | 3 | 0 | 3 | 193 | 256 | −63 | 3 |
26 tháng 8 năm 2023 | |||||
Iran | 59–100 | Brasil | |||
Tây Ban Nha | 94–64 | Bờ Biển Ngà | |||
28 tháng 8 năm 2023 | |||||
Bờ Biển Ngà | 71–69 | Iran | |||
Brasil | 78–96 | Tây Ban Nha | |||
30 tháng 8 năm 2023 | |||||
Iran | 65–85 | Tây Ban Nha | |||
Bờ Biển Ngà | 77–89 | Brasil |
Bảng H
[sửa | sửa mã nguồn]Đia điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Canada | 3 | 3 | 0 | 324 | 213 | +111 | 6 | Vòng 2 |
2 | Latvia | 3 | 2 | 1 | 272 | 257 | +15 | 5 | |
3 | Pháp | 3 | 1 | 2 | 236 | 262 | −26 | 4 | Phân hạng 17–32 |
4 | Liban | 3 | 0 | 3 | 222 | 322 | −100 | 3 |
25 tháng 8 năm 2023 | |||||
Canada | 95–65 | Pháp | |||
Latvia | 109–70 | Liban | |||
27 tháng 8 năm 2023 | |||||
Liban | 73–128 | Canada | |||
Pháp | 86–88 | Latvia | |||
29 tháng 8 năm 2023 | |||||
Canada | 101–75 | Latvia | |||
Liban | 79–85 | Pháp |
Vòng 2
[sửa | sửa mã nguồn]Bảng I
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Ý | 5 | 4 | 1 | 331 | 313 | +18 | 9[a] | Tứ kết |
2 | Serbia | 5 | 4 | 1 | 502 | 380 | +122 | 9[a] | |
3 | Puerto Rico | 5 | 3 | 2 | 444 | 449 | −5 | 8[b] | |
4 | Cộng hòa Dominica | 5 | 3 | 2 | 425 | 444 | −19 | 8[b] |
1 tháng 9 năm 2023 | |||||
Cộng hòa Dominica | 97–102 | Puerto Rico | |||
Serbia | 76–78 | Ý | |||
3 tháng 9 năm 2023 | |||||
Ý | 73–57 | Puerto Rico | |||
Cộng hòa Dominica | 79–112 | Serbia |
Bảng J
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Litva | 5 | 5 | 0 | 482 | 375 | +107 | 10 | Tứ kết |
2 | Hoa Kỳ | 5 | 4 | 1 | 507 | 398 | +109 | 9 | |
3 | Montenegro | 5 | 3 | 2 | 397 | 390 | +7 | 8 | |
4 | Hy Lạp | 5 | 2 | 3 | 392 | 419 | −27 | 7 |
1 tháng 9 năm 2023 | |||||
Hoa Kỳ | 85–73 | Montenegro | |||
Litva | 92–67 | Hy Lạp | |||
3 tháng 9 năm 2023 | |||||
Hy Lạp | 69–73 | Montenegro | |||
Hoa Kỳ | 104–110 | Litva |
Bảng K
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Đức | 5 | 5 | 0 | 467 | 364 | +103 | 10 | Tứ kết |
2 | Slovenia | 5 | 4 | 1 | 442 | 409 | +33 | 9 | |
3 | Úc | 5 | 3 | 2 | 469 | 421 | +48 | 8 | |
4 | Gruzia | 5 | 2 | 3 | 379 | 407 | −28 | 7 |
1 tháng 9 năm 2023 | |||||
Đức | 100–73 | Gruzia | |||
Slovenia | 91–80 | Úc | |||
3 tháng 9 năm 2023 | |||||
Úc | 100–84 | Gruzia | |||
Đức | 100–71 | Slovenia |
Bảng L
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Canada | 5 | 4 | 1 | 477 | 367 | +110 | 9[a] | Tứ kết |
2 | Latvia | 5 | 4 | 1 | 450 | 410 | +40 | 9[a] | |
3 | Tây Ban Nha | 5 | 3 | 2 | 429 | 369 | +60 | 8[b] | |
4 | Brasil | 5 | 3 | 2 | 420 | 401 | +19 | 8[b] |
1 tháng 9 năm 2023 | |||||
Tây Ban Nha | 69–74 | Latvia | |||
Canada | 65–69 | Brasil | |||
3 tháng 9 năm 2023 | |||||
Brasil | 84–104 | Latvia | |||
Tây Ban Nha | 85–88 | Canada |
Phân hạng 17–32
[sửa | sửa mã nguồn]Bảng M
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Đấu trường Araneta, Thành phố Quezon
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Nam Sudan | 5 | 3 | 2 | 456 | 431 | +25 | 8 |
2 | Philippines (H) | 5 | 1 | 4 | 398 | 419 | −21 | 6[a] |
3 | Angola | 5 | 1 | 4 | 368 | 410 | −42 | 6[a] |
4 | Trung Quốc | 5 | 1 | 4 | 379 | 473 | −94 | 6[a] |
31 tháng 8 năm 2023 | |||||
Angola | 76–83 | Trung Quốc | |||
Nam Sudan | 87–68 | Philippines | |||
2 tháng 9 năm 2023 | |||||
Philippines | 96–75 | Trung Quốc | |||
Angola | 78–101 | Nam Sudan |
Bảng N
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Ai Cập | 5 | 2 | 3 | 412 | 411 | +1 | 7[a] |
2 | New Zealand | 5 | 2 | 3 | 429 | 463 | −34 | 7[a] |
3 | México | 5 | 2 | 3 | 410 | 467 | −57 | 7[a] |
4 | Jordan | 5 | 0 | 5 | 369 | 475 | −106 | 5 |
31 tháng 8 năm 2023 | |||||
New Zealand | 100–108 | México | |||
Ai Cập | 85–69 | Jordan | |||
2 tháng 9 năm 2023 | |||||
Jordan | 80–93 | México | |||
New Zealand | 88–86 | Ai Cập |
Bảng O
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Okinawa, Thành phố Okinawa
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Nhật Bản (H) | 5 | 3 | 2 | 416 | 426 | −10 | 8 |
2 | Phần Lan | 5 | 2 | 3 | 425 | 449 | −24 | 7 |
3 | Cabo Verde | 5 | 1 | 4 | 366 | 432 | −66 | 6 |
4 | Venezuela | 5 | 0 | 5 | 371 | 427 | −56 | 5 |
31 tháng 8 năm 2023 | |||||
Nhật Bản | 86–77 | Venezuela | |||
Cabo Verde | 77–100 | Phần Lan | |||
2 tháng 9 năm 2023 | |||||
Phần Lan | 90–75 | Venezuela | |||
Nhật Bản | 80–71 | Cabo Verde |
Bảng P
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: Nhà thi đấu Indonesia, Jakarta
VT | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | Pháp | 5 | 3 | 2 | 405 | 394 | +11 | 8 |
2 | Liban | 5 | 2 | 3 | 397 | 479 | −82 | 7 |
3 | Bờ Biển Ngà | 5 | 1 | 4 | 373 | 433 | −60 | 6 |
4 | Iran | 5 | 0 | 5 | 321 | 419 | −98 | 5 |
31 tháng 8 năm 2023 | |||||
Bờ Biển Ngà | 84–94 | Liban | |||
Pháp | 82–55 | Iran | |||
2 tháng 9 năm 2023 | |||||
Iran | 73–81 | Liban | |||
Bờ Biển Ngà | 77–87 | Pháp |
Vòng cuối cùng
[sửa | sửa mã nguồn]Địa điểm: SM Mall of Asia Arena, Pasay
Tứ kết | Bán kết | Chung kết | ||||||||
5 tháng 9 | ||||||||||
Ý | 63 | |||||||||
8 tháng 9 | ||||||||||
Hoa Kỳ | 100 | |||||||||
Hoa Kỳ | 111 | |||||||||
6 tháng 9 | ||||||||||
Đức | 113 | |||||||||
Đức | 81 | |||||||||
10 tháng 9 | ||||||||||
Latvia | 79 | |||||||||
Đức | 83 | |||||||||
5 tháng 9 | ||||||||||
Serbia | 77 | |||||||||
Litva | 68 | |||||||||
8 tháng 9 | ||||||||||
Serbia | 87 | |||||||||
Serbia | 95 | |||||||||
6 tháng 9 | ||||||||||
Canada | 86 | Tranh hạng ba | ||||||||
Canada | 100 | |||||||||
10 tháng 9 | ||||||||||
Slovenia | 89 | |||||||||
Hoa Kỳ | 118 | |||||||||
Canada (OT) | 127 | |||||||||
Phân hạng 5–8
[sửa | sửa mã nguồn]Phân hạng 5–8 | Tranh hạng 5 | |||||
7 tháng 9 | ||||||
Ý | 82 | |||||
9 tháng 9 | ||||||
Latvia | 87 | |||||
Latvia | 98 | |||||
7 tháng 9 | ||||||
Litva | 63 | |||||
Litva | 100 | |||||
Slovenia | 84 | |||||
Tranh hạng 7 | ||||||
9 tháng 9 | ||||||
Ý | 85 | |||||
Slovenia | 89 |
Tứ kết
[sửa | sửa mã nguồn]5 tháng 9 năm 2023 20:40 |
Chi tiết | Ý | 63–100 | Hoa Kỳ | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 9,764 Trọng tài: Julio Anaya (Panama), Ademir Zurapović (Bosna và Hercegovina), Juan Fernández (Argentina) | |
Điểm mỗi set: 14–24, 10–22, 20–37, 19–17 | ||||||
Điểm: Fontecchio 18 Chụp bóng bật bảng: Melli 9 Hỗ trợ: Tonut 5 |
Điểm: Bridges 24 Chụp bóng bật bảng: Bridges, Portis 7 Hỗ trợ: Haliburton 5 |
5 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Litva | 68–87 | Serbia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 6,223 Trọng tài: Omar Bermúdez (México), Mārtiņš Kozlovskis (Latvia), Johnny Batista (Puerto Rico) | |
Điểm mỗi set: 25–24, 13–25, 17–24, 13–14 | ||||||
Điểm: Sedekerskis 14 Chụp bóng bật bảng: Sedekerskis 9 Hỗ trợ: Jokubaitis 9 |
Điểm: Bogdanović 21 Chụp bóng bật bảng: Petrušev 6 Hỗ trợ: Gudurić 6 |
6 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Đức | 81–79 | Latvia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 7,584 Trọng tài: Antonio Conde (Tây Ban Nha), Yohan Rosso (Pháp), Martin Vulić (Croatia) | |
Điểm mỗi set: 13–16, 23–18, 26–25, 19–20 | ||||||
Điểm: F. Wagner 16 Chụp bóng bật bảng: Theis, F. Wagner 8 Hỗ trợ: Schröder 4 |
Điểm: Žagars 24 Chụp bóng bật bảng: Kurucs 10 Hỗ trợ: Žagars 8 |
6 tháng 9 năm 2023 20:40 |
Chi tiết | Canada | 100–89 | Slovenia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 11,710 Trọng tài: Roberto Vázquez (Puerto Rico), Manuel Mazzoni (Ý), Gatis Saliņš (Latvia) | |
Điểm mỗi set: 26–24, 24–26, 30–21, 20–18 | ||||||
Điểm: Gilgeous-Alexander 31 Chụp bóng bật bảng: Gilgeous-Alexander 10 Hỗ trợ: Gilgeous-Alexander, Olynyk 4 |
Điểm: Dončić 26 Chụp bóng bật bảng: Tobey 6 Hỗ trợ: Dončić 5 |
Phân hạng 5–8
[sửa | sửa mã nguồn]7 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Ý | 82–87 | Latvia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 4,579 Trọng tài: Ademir Zurapović (Bosna và Hercegovina), Kato Takaki (Nhật Bản), Blanca Burns (Hoa Kỳ) | |
Điểm mỗi set: 26–18, 16–28, 18–21, 22–20 | ||||||
Điểm: Datome 20 Chụp bóng bật bảng: Melli 9 Hỗ trợ: Spissu 7 |
Điểm: Gražulis 28 Chụp bóng bật bảng: Gražulis 6 Hỗ trợ: Šķēle 9 |
7 tháng 9 năm 2023 20:30 |
Chi tiết | Litva | 100–84 | Slovenia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 11,003 Trọng tài: Matthew Kallio (Canada), Omar Bermúdez (México), Johnny Batista (Puerto Rico) | |
Điểm mỗi set: 33–21, 20–22, 22–20, 25–21 | ||||||
Điểm: Valančiūnas 24 Chụp bóng bật bảng: Valančiūnas 12 Hỗ trợ: Kariniauskas 10 |
Điểm: Dončić 29 Chụp bóng bật bảng: Tobey 9 Hỗ trợ: Dragić 3 |
Bán kết
[sửa | sửa mã nguồn]8 tháng 9 năm 2023 20:40 |
Chi tiết | Hoa Kỳ | 111–113 | Đức | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 11,011 Trọng tài: Antonio Conde (Tây Ban Nha), Boris Krejič (Slovenia), Gatis Saliņš (Latvia) | |
Điểm mỗi set: 31–33, 29–26, 24–35, 27–19 | ||||||
Điểm: Edwards 23 Chụp bóng bật bảng: Edwards 8 Hỗ trợ: Haliburton 8 |
Điểm: Obst 24 Chụp bóng bật bảng: Theis, Voigtmann 7 Hỗ trợ: Schröder 9 |
8 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Serbia | 95–86 | Canada | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 8,630 Trọng tài: Yohan Rosso (Pháp), Julio Anaya (Panama), Manuel Mazzoni (Ý) | |
Điểm mỗi set: 23–15, 29–24, 23–24, 20–23 | ||||||
Điểm: Bogdanović 23 Chụp bóng bật bảng: Milutinov 10 Hỗ trợ: S. Jović 5 |
Điểm: Barrett 23 Chụp bóng bật bảng: 5 cầu thủ 3 Hỗ trợ: Gilgeous-Alexander 9 |
Tranh hạng 7
[sửa | sửa mã nguồn]9 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Ý | 85–89 | Slovenia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 10,075 Trọng tài: Ademir Zurapović (Bosna và Hercegovina), Mārtiņš Kozlovskis (Latvia), Martin Vulić (Croatia) | |
Điểm mỗi set: 18–15, 23–27, 19–28, 25–19 | ||||||
Điểm: Spissu 22 Chụp bóng bật bảng: Polonara 7 Hỗ trợ: Melli 5 |
Điểm: Dončić 29 Chụp bóng bật bảng: Dončić 10 Hỗ trợ: Dončić 8 |
Tranh hạng 5
[sửa | sửa mã nguồn]9 tháng 9 năm 2023 20:30 |
Chi tiết | Latvia | 98–63 | Litva | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 9,440 Trọng tài: Manuel Mazzoni (Ý), Blanca Burns (Hoa Kỳ), Johnny Batista (Puerto Rico) | |
Điểm mỗi set: 28–20, 21–18, 28–9, 21–16 | ||||||
Điểm: A. Kurucs 20 Chụp bóng bật bảng: 4 cầu thủ 6 Hỗ trợ: Žagars 17 |
Điểm: Jokubaitis 16 Chụp bóng bật bảng: Sedekerskis 10 Hỗ trợ: Brazdeikis 3 |
Tranh hạng 3
[sửa | sửa mã nguồn]10 tháng 9 năm 2023 16:45 |
Chi tiết | Hoa Kỳ | 118–127 | Canada | OT | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 10,666 Trọng tài: Yohan Rosso (Pháp), Julio Anaya (Panama), Kato Takaki (Nhật Bản) |
Điểm mỗi set: 25–34, 31–24, 26–33, 29–20, OT: 7–16 | ||||||
Điểm: Edwards 24 Chụp bóng bật bảng: 3 cầu thủ 5 Hỗ trợ: Bridges 9 |
Điểm: Brooks 39 Chụp bóng bật bảng: Barrett, Powell 7 Hỗ trợ: Gilgeous-Alexander 12 |
Chung kết
[sửa | sửa mã nguồn]10 tháng 9 năm 2023 20:30 |
Chi tiết | Đức | 83–77 | Serbia | SM Mall of Asia Arena, Pasay Số khán giả: 12,022 Trọng tài: Roberto Vázquez (Puerto Rico), Omar Bermúdez (México), Gatis Saliņš (Latvia) | |
Điểm mỗi set: 23–26, 24–21, 22–10, 14–20 | ||||||
Điểm: Schröder 28 Chụp bóng bật bảng: Voigtmann 8 Hỗ trợ: Voigtmann 3 |
Điểm: Avramović 21 Chụp bóng bật bảng: N. Jović 8 |
Bảng xếp hạng giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]VT | Khu vực | Đội | ST | T | B | ĐT | ĐB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Châu Âu | Đức[a] | 8 | 8 | 0 | 744 | 631 | +113 | 16 | Giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 | |
Châu Âu | Serbia[a] | 8 | 6 | 2 | 761 | 617 | +144 | 14 | ||
Châu Mỹ | Canada[b] | 8 | 6 | 2 | 790 | 669 | +121 | 14 | ||
4 | Châu Mỹ | Hoa Kỳ[b] | 8 | 5 | 3 | 836 | 701 | +135 | 13 | |
5 | Châu Âu | Latvia | 8 | 6 | 2 | 714 | 636 | +78 | 14 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
6 | Châu Âu | Litva | 8 | 6 | 2 | 713 | 644 | +69 | 14 | |
7 | Châu Âu | Slovenia | 8 | 5 | 3 | 704 | 694 | +10 | 13 | |
8 | Châu Âu | Ý | 8 | 4 | 4 | 634 | 646 | −12 | 12 | |
9 | Châu Âu | Tây Ban Nha | 5 | 3 | 2 | 429 | 369 | +60 | 8 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
10 | Châu Đại Dương | Úc[c] | 5 | 3 | 2 | 469 | 421 | +48 | 8 | Giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 |
11 | Châu Âu | Montenegro | 5 | 3 | 2 | 397 | 390 | +7 | 8 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
12 | Châu Mỹ | Puerto Rico[d] | 5 | 3 | 2 | 444 | 449 | −5 | 8 | |
13 | Châu Mỹ | Brasil | 5 | 3 | 2 | 420 | 401 | +19 | 8 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
14 | Châu Mỹ | Cộng hòa Dominica | 5 | 3 | 2 | 425 | 444 | −19 | 8 | |
15 | Châu Âu | Hy Lạp | 5 | 2 | 3 | 392 | 419 | −27 | 7 | |
16 | Châu Âu | Gruzia | 5 | 2 | 3 | 379 | 407 | −28 | 7 | |
17 | Châu Phi | Nam Sudan[e] | 5 | 3 | 2 | 456 | 431 | +25 | 8 | Giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 |
18 | Châu Âu | Pháp[f] | 5 | 3 | 2 | 405 | 394 | +11 | 8 | Giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 với tư cách là nước chủ nhà |
19 | Châu Á | Nhật Bản[g] (H) | 5 | 3 | 2 | 416 | 426 | −10 | 8 | Giành quyền tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 |
20 | Châu Phi | Ai Cập[h] | 5 | 2 | 3 | 412 | 411 | +1 | 7 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
21 | Châu Âu | Phần Lan | 5 | 2 | 3 | 425 | 449 | −24 | 7 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
22 | Châu Đại Dương | New Zealand[i] | 5 | 2 | 3 | 429 | 463 | −34 | 7 | |
23 | Châu Á | Liban | 5 | 2 | 3 | 397 | 479 | −82 | 7 | |
24 | Châu Mỹ | México | 5 | 2 | 3 | 410 | 467 | −57 | 7 | |
25 | Châu Á | Philippines (H) | 5 | 1 | 4 | 398 | 419 | −21 | 6 | Giành quyền tham dự vòng loại môn bóng rổ nam tại Thế vận hội Mùa hè 2024 |
26 | Châu Phi | Angola | 5 | 1 | 4 | 368 | 410 | −42 | 6 | |
27 | Châu Phi | Bờ Biển Ngà | 5 | 1 | 4 | 373 | 433 | −60 | 6 | |
28 | Châu Phi | Cabo Verde | 5 | 1 | 4 | 366 | 432 | −66 | 6 | |
29 | Châu Á | Trung Quốc | 5 | 1 | 4 | 379 | 473 | −94 | 6 | |
30 | Châu Mỹ | Venezuela | 5 | 0 | 5 | 371 | 427 | −56 | 5 | |
31 | Châu Á | Iran | 5 | 0 | 5 | 321 | 419 | −98 | 5 | |
32 | Châu Á | Jordan | 5 | 0 | 5 | 369 | 475 | −106 | 5 |
Quy tắc xếp hạng: 1) Vị trí các đội trong mỗi bảng đấu; 2) Tỷ lệ thắng thua; 3) Điểm khác biệt; 4) Số điểm ghi được; 5) Thứ tự bốc thăm.
(H) Chủ nhà
Ghi chú:
- ^ a b Đức và Serbia tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là hai đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất của châu Âu.
- ^ a b Canada và Hoa Kỳ tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là hai đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất của châu Âu.
- ^ Úc tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất của châu Đại Dương.
- ^ Puerto Rico tham dự vòng loại Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển thứ hai có thành tích xuất sắc của châu Mỹ.
- ^ Nam Sudan tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất của châu Phi.
- ^ Pháp tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội chủ nhà.
- ^ Nhật Bản tham dự Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất của châu Á.
- ^ Ai Cập tham dự vòng loại Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển thứ hai có thành tích xuất sắc của châu Phi.
- ^ New Zealand tham dự vòng loại Thế vận hội Mùa hè với tư cách là đội tuyển thứ hai có thành tích xuất sắc của châu Đại Dương.
Các giải thưởng
[sửa | sửa mã nguồn]Đội hình tiêu biểu và cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu được công bố vào ngày 10 tháng 9 năm 2023.[119][120][121]
Nhà vô địch Giải vô địch bóng rổ thé giới 2023 |
---|
Đức Lần đầu tiên |
Đội hình tiêu biểu
[sửa | sửa mã nguồn]Đội hình tiêu biểu | ||||
---|---|---|---|---|
Dennis Schröder Shai Gilgeous-Alexander Anthony Edwards Bogdan Bogdanović Luka Dončić | ||||
Đội hình thứ hai | ||||
Artūrs Žagars Simone Fontecchio Jonas Valančiūnas Nikola Milutinov Franz Wagner | ||||
MVP: Dennis Schröder | ||||
Ngôi sao mới nổi: Josh Giddey | ||||
Phòng vệ xuất sắc nhất Dillon Brooks | ||||
Huấn luyện viên xuất sắc nhất: / Luca Banchi |
Thống kê
[sửa | sửa mã nguồn]Số liệu trung bình của các cầu thủ trong giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Điểm
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số điểm | Số điểm trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Luka Dončić | 8 | 216 | 27.0 |
2 | Jordan Clarkson | 5 | 130 | 26.0 |
3 | Lauri Markkanen | 5 | 124 | 24.8 |
4 | Shai Gilgeous-Alexander | 8 | 196 | 24.5 |
5 | Karl-Anthony Towns | 5 | 122 | 24.4 |
6 | Rondae Hollis-Jefferson | 5 | 118 | 23.6 |
7 | Josh Hawkinson | 5 | 105 | 21.0 |
8 | Carlik Jones | 5 | 102 | 20.4 |
9 | Tremont Waters | 5 | 100 | 20.0 |
10 | Nikola Vučević | 5 | 99 | 19.8 |
Chụp bóng bật bảng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số pha chụp bóng bật bảng | Số pha chụp bóng bật bảng trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Edy Tavares | 5 | 62 | 12.4 |
2 | Josh Hawkinson | 5 | 54 | 10.8 |
3 | Bruno Caboclo | 5 | 46 | 9.2 |
4 | Ahmad Dwairi | 5 | 45 | 9.0 |
5 | Nikola Vučević | 5 | 44 | 8.8 |
6 | Jonas Valančiūnas | 8 | 70 | 8.8 |
7 | A. J. Edu | 5 | 43 | 8.6 |
8 | Fabián Jaimes | 5 | 42 | 8.4 |
9 | Nikola Milutinov | 8 | 67 | 8.4 |
10 | Rudy Gobert | 4 | 33 | 8.3 |
Hỗ trợ
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số pha hỗ trợ | Số pha hỗ trợ trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Carlik Jones | 5 | 52 | 10.4 |
2 | Tremont Waters | 5 | 46 | 9.2 |
3 | Shea Ili | 5 | 38 | 7.6 |
Kawamura Yuki | 5 | 38 | 7.6 | |
5 | Artūrs Žagars | 8 | 59 | 7.4 |
6 | Yago dos Santos | 5 | 36 | 7.2 |
Paul Stoll | 5 | 36 | 7.2 | |
Thomas Walkup | 5 | 36 | 7.2 | |
9 | Heissler Guillent | 5 | 33 | 6.6 |
10 | Shai Gilgeous-Alexander | 8 | 51 | 6.4 |
Cướp bóng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số pha cướp bóng | Số pha cướp bóng trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Ehab Amin | 5 | 13 | 2.6 |
Tremont Waters | 5 | 13 | 2.6 | |
3 | Luka Dončić | 8 | 20 | 2.5 |
4 | Paul Stoll | 5 | 12 | 2.4 |
5 | Izayah Le'afa | 5 | 11 | 2.2 |
6 | Bogdan Bogdanović | 8 | 17 | 2.1 |
7 | Arsalan Kazemi | 5 | 10 | 2.0 |
Víctor Liz | 5 | 10 | 2.0 | |
Freddy Ibrahim | 4 | 8 | 2.0 | |
10 | Cédric Bah | 5 | 9 | 1.8 |
Chắn bóng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số pha chắn bóng | Số pha chắn bóng trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Wenyen Gabriel | 5 | 13 | 2.6 |
2 | Anas Mahmoud | 5 | 11 | 2.2 |
3 | Georgios Papagiannis | 5 | 9 | 1.8 |
Edy Tavares | 5 | 9 | 1.8 | |
Yuta Watanabe | 5 | 9 | 1.8 | |
6 | Rudy Gobert | 4 | 7 | 1.8 |
7 | Nicolas Batum | 5 | 8 | 1.6 |
George Conditt IV | 5 | 8 | 1.6 | |
Ahmad Dwairi | 5 | 8 | 1.6 | |
Nikola Vučević | 5 | 8 | 1.6 |
Số phút thi đấu
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số phút thi đấu | Số phút trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Rondae Hollis-Jefferson | 5 | 192 | 38.6 |
2 | Jordan Clarkson | 5 | 179 | 35.9 |
3 | Tremont Waters | 5 | 175 | 35.1 |
4 | Watanabe Yuta | 5 | 175 | 35.0 |
5 | Ehab Amin | 5 | 175 | 35.0 |
6 | Josh Hawkinson | 5 | 174 | 34.9 |
7 | Freddy Ibrahim | 4 | 134 | 33.6 |
8 | Ahmad Dwairi | 5 | 166 | 33.4 |
9 | Wael Arakji | 4 | 128 | 32.2 |
10 | Luka Dončić | 8 | 257 | 32.1 |
Tỷ lệ ném phạt
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số pha ném phạt chính xác | Số pha ném phạt | Tỷ lệ chính xác |
---|---|---|---|---|
1 | Bazoumana Koné | 13 | 13 | 100.0 |
2 | Austin Reaves | 37 | 39 | 94.9 |
3 | Nikola Vučević | 17 | 18 | 94.4 |
4 | Hamed Haddadi | 16 | 17 | 94.1 |
5 | Santi Aldama | 15 | 16 | 93.8 |
6 | Karl-Anthony Towns | 39 | 42 | 92.9 |
7 | Shea Ili | 25 | 27 | 92.6 |
Kelly Olynyk | 25 | 27 | 92.6 | |
9 | Lauri Markkanen | 34 | 38 | 89.5 |
10 | Josh Hawkinson | 40 | 45 | 88.9 |
Tremont Waters | 16 | 18 | 88.9 |
Tỷ lệ ném trúng mục tiêu
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số cú ném trúng mục tiêu | Số cú ném | Tỷ lệ chính xác |
---|---|---|---|---|
1 | Anas Mahmoud | 31 | 43 | 72.1 |
2 | Andrés Feliz | 28 | 41 | 68.3 |
3 | Andrejs Gražulis | 48 | 76 | 63.5 |
4 | Jonas Valančiūnas | 45 | 72 | 62.5 |
Mike Tobey | 40 | 64 | 62.5 | |
Ismael Romero | 25 | 40 | 62.5 | |
7 | Dillon Brooks | 41 | 69 | 59.4 |
8 | Daniel Theis | 38 | 64 | 59.4 |
9 | Josh Hawkinson | 30 | 51 | 58.8 |
10 | Willy Hernangómez | 31 | 53 | 58.5 |
Tỷ lệ ném 3 điểm
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số pha ném 3 điểm chính xác | Số pha ném 3 điểm | Tỷ lệ chính xác |
---|---|---|---|---|
1 | Andrés Feliz | 15 | 23 | 65.2 |
2 | Tim Soares | 9 | 15 | 60.0 |
3 | Dillon Brooks | 20 | 34 | 58.8 |
Mike Tobey | 10 | 17 | 58.8 | |
5 | Peter Jok | 14 | 24 | 58.3 |
6 | Hiejima Makoto | 8 | 14 | 57.1 |
7 | Karim Zeinoun | 9 | 16 | 56.3 |
8 | Mikal Bridges | 15 | 27 | 55.6 |
Andrejs Gražulis | 10 | 18 | 55.6 | |
10 | Rokas Jokubaitis | 11 | 20 | 55.0 |
Tranh chấp tay đôi
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số pha tranh chấp tay đôi | Tỷ lệ chiến thắng |
---|---|---|---|---|
1 | Nikola Milutinov | 8 | 4 | 50.0 |
2 | Shai Gilgeous-Alexander | 8 | 3 | 37.5 |
Carlik Jones | 5 | 3 | 60.0 | |
Karl-Anthony Towns | 5 | 3 | 60.0 | |
Jonas Valančiūnas | 8 | 3 | 37.5 | |
6 | Goga Bitadze | 5 | 2 | 40.0 |
Bruno Caboclo | 5 | 2 | 40.0 | |
Luka Dončić | 8 | 2 | 25.0 | |
Ahmad Dwairi | 5 | 2 | 40.0 | |
Wenyen Gabriel | 5 | 2 | 40.0 | |
Shea Ili | 5 | 2 | 40.0 | |
Fabián Jaimes | 5 | 2 | 40.0 | |
Assem Marei | 5 | 2 | 40.0 | |
Ismael Romero | 5 | 2 | 40.0 | |
Edy Tavares | 5 | 2 | 40.0 | |
Nikola Vučević | 5 | 2 | 40.0 | |
Tremont Waters | 5 | 2 | 40.0 |
Hiệu suất trong các pha tấn công
[sửa | sửa mã nguồn]# | Cầu thủ | Số trận đấu | Số điểm ghi được | Số điểm ghi được trên một trận | Hiệu suất | Hiệu suất trên một trận |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | Shai Gilgeous-Alexander | 8 | 32.1 | 24.5 | 243 | 30.4 |
2 | Josh Hawkinson | 5 | 34.9 | 21.0 | 143 | 28.6 |
3 | Luka Dončić | 8 | 32.1 | 27.0 | 208 | 26.0 |
Carlik Jones | 5 | 30.3 | 20.4 | 130 | 26.0 | |
5 | Lauri Markkanen | 5 | 26.7 | 24.8 | 120 | 24.0 |
Nikola Vučević | 5 | 26.7 | 19.8 | 120 | 24.0 | |
7 | Karl-Anthony Towns | 5 | 29.6 | 24.4 | 115 | 23.0 |
8 | Rondae Hollis-Jefferson | 5 | 38.6 | 23.6 | 113 | 22.6 |
9 | Bruno Caboclo | 5 | 28.1 | 16.4 | 110 | 22.0 |
Andrés Feliz | 5 | 27.3 | 16.0 | 110 | 22.0 |
Số liệu trung bình của các đội trong giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Điểm
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số điểm | Số điểm trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Hoa Kỳ | 8 | 836 | 104.5 |
2 | Canada | 8 | 790 | 98.8 |
3 | Serbia | 8 | 761 | 95.1 |
4 | Úc | 5 | 469 | 93.8 |
5 | Đức | 8 | 744 | 93.0 |
6 | Nam Sudan | 5 | 456 | 91.2 |
7 | Latvia | 8 | 714 | 89.3 |
8 | Litva | 8 | 713 | 89.1 |
9 | Puerto Rico | 5 | 444 | 88.8 |
10 | Slovenia | 8 | 704 | 88.0 |
Chụp bóng bật bảng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha chụp bóng bật bảng | Số pha trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Angola | 5 | 212 | 42.4 |
2 | Philippines | 5 | 207 | 41.4 |
3 | Brasil | 5 | 202 | 40.4 |
4 | Litva | 8 | 318 | 39.8 |
5 | Hoa Kỳ | 8 | 317 | 39.6 |
6 | Ai Cập | 5 | 196 | 39.2 |
7 | Montenegro | 5 | 193 | 38.6 |
Tây Ban Nha | 5 | 193 | 38.6 | |
9 | Gruzia | 5 | 192 | 38.4 |
Puerto Rico | 5 | 192 | 38.4 |
Hỗ trợ
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha hỗ trợ | Số pha trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Tây Ban Nha | 5 | 139 | 27.8 |
2 | Phần Lan | 5 | 123 | 24.6 |
3 | Latvia | 8 | 195 | 24.4 |
4 | Hoa Kỳ | 8 | 191 | 23.9 |
5 | Serbia | 8 | 189 | 23.6 |
6 | Úc | 5 | 116 | 23.2 |
7 | Nam Sudan | 5 | 113 | 22.6 |
8 | Đức | 8 | 180 | 22.5 |
9 | Canada | 8 | 178 | 22.3 |
10 | México | 5 | 111 | 22.2 |
Chắn bóng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha chắn bóng | Số pha trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Hoa Kỳ | 8 | 43 | 5.4 |
2 | Pháp | 5 | 24 | 4.8 |
3 | Nam Sudan | 5 | 22 | 4.4 |
4 | Philippines | 5 | 21 | 4.2 |
5 | Úc | 5 | 19 | 3.8 |
Ai Cập | 5 | 19 | 3.8 | |
Tây Ban Nha | 5 | 19 | 3.8 | |
8 | Litva | 8 | 30 | 3.8 |
9 | Phần Lan | 5 | 17 | 3.4 |
Nhật Bản | 5 | 17 | 3.4 |
Cướp bóng
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha cướp bóng | Số pha trên một trận |
---|---|---|---|---|
1 | Bờ Biển Ngà | 5 | 50 | 10.0 |
2 | Serbia | 8 | 73 | 9.1 |
3 | Hoa Kỳ | 8 | 72 | 9.0 |
Montenegro | 5 | 45 | 9.0 | |
5 | Ai Cập | 5 | 43 | 8.6 |
6 | Jordan | 5 | 42 | 8.4 |
7 | Angola | 5 | 41 | 8.2 |
8 | Đức | 8 | 65 | 8.1 |
9 | Pháp | 5 | 40 | 8.0 |
10 | Puerto Rico | 5 | 39 | 7.8 |
Ném phạt
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha ném phạt | Hiệu suất |
---|---|---|---|---|
1 | Bờ Biển Ngà | 5 | 72/83 | 86.7 |
2 | Brasil | 5 | 85/102 | 83.3 |
3 | Phần Lan | 5 | 64/77 | 83.1 |
4 | Nhật Bản | 5 | 79/98 | 80.6 |
5 | Gruzia | 5 | 80/100 | 80.0 |
6 | Ý | 8 | 103/129 | 79.8 |
7 | Hoa Kỳ | 8 | 166/209 | 79.4 |
8 | Đức | 8 | 117/148 | 79.1 |
9 | Serbia | 8 | 141/180 | 78.3 |
10 | Úc | 5 | 72/92 | 78.3 |
Số pha ném trúng mục tiêu
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số lượt ném trúng mục tiêu | Hiệu suất |
---|---|---|---|---|
1 | Serbia | 8 | 270/498 | 54.2 |
2 | Hoa Kỳ | 8 | 294/549 | 53.6 |
3 | Latvia | 8 | 264/513 | 51.5 |
4 | Đức | 8 | 268/524 | 51.1 |
5 | Úc | 5 | 175/344 | 50.9 |
6 | Litva | 8 | 262/516 | 50.8 |
7 | Canada | 8 | 269/538 | 50.0 |
8 | Pháp | 5 | 146/293 | 49.8 |
9 | Tây Ban Nha | 5 | 151/308 | 49.0 |
10 | Nam Sudan | 5 | 157/329 | 47.7 |
Số pha ném 3 điểm
[sửa | sửa mã nguồn]# | Đội tuyển | Số trận đấu | Số pha ném 3 điểm | Hiệu suất |
---|---|---|---|---|
1 | Litva | 8 | 86/204 | 42.2 |
2 | Latvia | 8 | 110/261 | 42.1 |
3 | Nam Sudan | 5 | 59/145 | 40.7 |
4 | Canada | 8 | 102/253 | 40.3 |
5 | Hoa Kỳ | 8 | 82/205 | 40.0 |
6 | New Zealand | 5 | 57/144 | 39.6 |
7 | Liban | 5 | 46/118 | 39.0 |
8 | Puerto Rico | 5 | 58/152 | 38.2 |
9 | Đức | 8 | 91/239 | 38.1 |
10 | México | 5 | 45/119 | 37.8 |
Trận đấu có cầu thủ ghi nhiều nhất
[sửa | sửa mã nguồn]Thể loại | Cầu thủ | Đội tuyển | Đối thủ | Tổng |
---|---|---|---|---|
Điểm | Dillon Brooks | Canada | Hoa Kỳ | 39 |
Rondae Hollis-Jefferson | Jordan | New Zealand | ||
Karl-Anthony Towns | Cộng hòa Dominica | Puerto Rico | ||
Chụp bóng bật bảng | Josh Hawkinson | Nhật Bản | Phần Lan | 19 |
Hỗ trợ | Artūrs Žagars | Latvia | Litva | 17 |
Cướp bóng | Nicolò Melli | Ý | Slovenia | 5 |
Stephen Thompson Jr. | Puerto Rico | Nam Sudan | ||
Raul Neto | Brasil | Iran | ||
Chắn bóng | Wenyen Gabriel | Nam Sudan | Angola | 6 |
Hiệu suất | Josh Hawkinson | Nhật Bản | Phần Lan | 44 |
Đội tuyển có điểm cao nhất trong trận đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Thể loại | Đội tuyển | Đối thủ | Tổng |
---|---|---|---|
Điểm | Canada | Liban | 128 |
Chụp bóng bật bảng | Hoa Kỳ | Jordan | 56 |
Hỗ trợ | Canada | Liban | 44 |
Cướp bóng | Montenegro | Ai Cập | 15 |
Chắn bóng | Nam Sudan | Angola | 9 |
Cách biệt lớn nhất | Canada | Liban | 55 |
Tiếp thị
[sửa | sửa mã nguồn]Biểu trưng
[sửa | sửa mã nguồn]Logo chính thức của giải đấu được công bố vào ngày 4 tháng 12 năm 2020. Ý tưởng của logo bao gồm 3 ý tưởng chính: Trái tim tượng trưng cho niềm đam mê với bóng rổ, chiếc cúp Naismith tượng trưng cho giải thưởng được trao cho đội vô địch, và số "23" được biểu hiện là năm diễn ra giải đấu.[122] Logo của giải đấu đã được thống nhất rằng thời hạn sớm nhất là vào tháng 7 năm 2019 và chờ được FIBA phê duyệt vào thời điểm đó.[123] Logo được Công ty VMLY&R của Hoa Kỳ thiết kế.[124] Vào ngày 28 tháng 11 năm 2020, FIBA đã phát động chiến dịch "Don't Miss a Beat" (tạm dịch là: Đừng bỏ lỡ một nhịp nào) trước khi ra mắt logo.[125] Buổi lễ ra mắt logo chính là sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của FIBA.[124]
Ngoài ra, còn có logo cho các thành phố chủ nhà là Manila (Philippines), Okinawa (Nhật Bản) và Jakarta (Indonesia). Biểu trưng giải đấu tại Manila chính là hình xe Jeepney, một loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất ở Philippines. Còn tại Okinawa và Jakarta chính là hình của một số địa danh – Thành Shuri và Đài Tưởng niệm Quốc gia, một di tích lịch sử quốc gia của Indonesia, nằm ở Jakarta.
Khẩu hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, trong buổi lễ bốc thăm vòng loại, FIBA đã đưa ra khẩu hiệu cho giải đấu là: "Win For All" (tạm dịch là: Chiến thắng cho tất cả).[126][127]
Linh vật
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 9 tháng 6 năm 2022, FIBA chính thức công bố linh vật chính thức của giải đấu. Theo tiểu sử hư cấu, linh vật này không được đặt tên, được sáng tạo dựa theo ý tưởng của 3 cổ động viên bao gồm Caloy (Philippines), Kota (Nhật Bản) và Dewi (Indonesia) để tạo ra "thứ gì đó tuyệt vời để giúp cho mọi người đoàn kết và đại diện cho tất cả".[128] Linh vật của giải đấu là một chú robot có mặt gắn đèn LED cho phép chú robot này kết nối và tương tác với mọi người thông qua các biểu cảm với nhau. Ngoài ra, linh vật còn có một vòng bóng rổ được gắn sau lưng như một lời tuyên truyền cho tầm quan trọng của sự tái chế. Các màu đỏ, xanh và vàng của linh vật tượng trưng cho quốc kỳ của 3 nước chủ nhà. Một cuộc thi đặt tên trực tuyến đã được tổ chức vào ngày 28 tháng 7 năm 2022,[129] theo đó, linh vật này được đặt tên là "JIP", với chữ cái đầu tiên của 3 nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản (Japan) và Indonesia.[130]
Quả bóng chính thức
[sửa | sửa mã nguồn]Quả bóng chính thức được sử dụng cho giải đấu được FIBA công bố vào ngày 29 tháng 4 năm 2023 trong buổi lễ bốc thăm diễn ra tại Thành phố toàn cầu Bonifacio, Taguig.[42] Tương tự như giải đấu năm 2019, quả Molten BG5000 của Tập đoàn Molten (Nhật Bản) tiếp tục được sử dụng cho giải đấu nhưng được thiết kế mới, lấy cảm hứng từ sóng, vàng và trái tim. Với biệt danh "The Passion Wave" (tạm dịch là: "Làn sóng đam mê"), quả bóng tượng trưng cho nhịp tim sinh ra từ niềm đam mê với bóng rổ vang dội trên khắp thế giới.[131]
Điểm dừng chân của chiếc cúp
[sửa | sửa mã nguồn]Vài tháng trước khi giải đấu diễn ra, chiếc cúp Naismith đã bắt đầu cuộc hành trình đi qua 30 quốc gia tham dự giải đấu và 3 nước chủ nhà (Philippines, Nhật Bản, Indonesia). Điểm dừng chân của chiếc cúp đã được triển khai tại Thành phố toàn cầu Bonifacio ở Taguig, Vùng đô thị Manila, Philippines trong tuần lễ bốc thăm vòng bảng của giải đấu.[132] Trước khi ra mắt, chiếc cúp Naismith đã được truyền đi khắp các phương tiện thông tin đại chúng trước khi đến thăm Chung cư Fort Bonifacio tại Taguig một ngày trước buổi lễ bốc thăm. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2023, chiếc cúp sẽ có điểm dừng chân quốc tế đầu tiên tại Bắc Kinh, Trung Quốc và sẽ kết thúc vào ngày 24 tháng 8 năm 2023, một ngày trước giải đấu.
|
Đại sứ
[sửa | sửa mã nguồn]Đại sứ toàn cầu của giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Cựu tuyển thủ người Argentina và từng giúp Argentina 2 lần giành vị trí á quân thế giới Luis Scola trở thành Đại sứ toàn cầu của giải đấu vào ngày 14 tháng 12 năm 2022.[174]
Người từng 2 lần vô địch NBA và vô địch giải đấu năm 2006 Pau Gasol (Tây Ban Nha) cùng với Luis Scola trở thành Đại sứ toàn cầu của giải đấu vào ngày 6 tháng 2 năm 2023.[175] Pau Gasol cũng từng là Đại sứ của Giải vô địch bóng rổ nữ thế giới 2023 tại Úc.[176] Người đã từng 10 lần vô địch NBA và 3 lần giành Huy chương vàng Olympic Carmelo Antony (người Hoa Kỳ) cũng trở thành Đại sứ toàn cầu của giải đấu vào ngày 24 tháng 2 năm 2023.[177]
Đại sứ của giải đấu tại 3 quốc gia đồng chủ nhà (Philippines, Nhật Bản và Indonesia)
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 8 năm 2022, nam diễn viên người Indonesia Raffi Ahmad[178] và Hoa hậu Hoàn vũ 2018 người Philippines Catriona Gray[179] lần lượt được công bố là đại sứ của giải đấu tại Indonesia và Philippines. Các cựu tuyển thủ người Philippines Lewis Alfred Vasquez Tenorio, Larry Fonancier và Gary David cũng trở thành đại sứ của giải đấu tại Philippines.[179] B.League được công bố là đại sứ của giải đấu tại Nhật Bản.[180] Cựu thành viên của đội tuyển quốc gia Nhật Bản và chủ tịch Câu lạc bộ bóng rổ Levanga Hokkaido Orimo Takehiro được công bố là đại sứ của giải đấu tại Nhật Bản vài tuần trước buổi lễ bốc thăm. Nữ diễn viên Indonesia gốc Đức Cinta Laura trở thành đại sứ của giải đấu tại Indonesia vào ngày 11 tháng 7 năm 2023.[181]
Bán vé
[sửa | sửa mã nguồn]Giá vé xem tất cả các trận đấu của giải đấu do Ban Tổ chức giải đấu của 3 nước chủ nhà (Philippines, Nhật Bản và Indonesia) quyết định và đã được FIBA xem xét.[182]
Các gói vé hoặc các vé bao gồm nhiều trận đấu diễn ra trong một ngày đã được cung cấp sớm nhất vào tháng 3 năm 2022.[183][184] Vé một trận đấu đã được bán ra vào tháng 7 năm 2023.[185][186]
Ở thành phố Okinawa, mục tiêu bán vé được đưa ra với mức giá 1 tỷ Yên Nhật (tương đương với khoảng 6,8 triệu đô la Mỹ) do Ban Tổ chức giải đấu tại Nhật Bản đặt ra đã đạt được những kết quả nhất định.[187]
Vào ngày bế mạc của giải đấu (ngày 10 tháng 9 năm 2023), FIBA đã kết luận rằng số lượng khán giả đến sân theo dõi các trận đấu thấp hơn dự kiến do giá vé ở mức cao, đặc biệt là các vé hạng trung.[182][188]
Đồng hồ đếm ngược
[sửa | sửa mã nguồn]3 chiếc đồng hồ đếm ngược được ra mắt từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 8 năm 2022 tại Philippines, Nhật Bản và Indonesia để đánh dấu còn 1 năm nữa giải đấu sẽ diễn ra. Những chiếc đồng hồ này đặt tại Tòa nhà Tenbusu Naha ở Naha, Thành phố Okinawa; Tượng đài Selamat Datang ở Jakarta và Khu mua sắm SM Mall of Asia tại Pasay.[189] Đồng hồ đếm ngược ở Indonesia sau đó được chuyển đến Cửa hàng bách hóa Sarinah sau buổi lễ công bố.[190]
Tài trợ
[sửa | sửa mã nguồn]Đối tác toàn cầu của FIBA | Nhà tài trợ đến từ Indonesia | Nhà tài trợ đến từ Nhật Bản | Nhà tài trợ đến từ Philippines | Nhà cung cấp toàn cầu | Doanh nghiệp được cấp phép toàn cầu |
---|---|---|---|---|---|
Một số vấn đề liên quan đến công tác tổ chức giải đấu
[sửa | sửa mã nguồn]Vấn đề về giao thông ở Manila
[sửa | sửa mã nguồn]Một số người đã dự đoán rằng các phương tiện giao thông đông đúc ở Vùng đô thị Manila sẽ ảnh hưởng đến việc tổ chức các trận đấu ở Philippines. Là một phần trong quá trình chuẩn bị cho giải đấu, chính vì vậy, ban tổ chức giải đấu tại Philippines đã tiến hành mô phỏng việc vận chuyển các cầu thủ và ban huấn luyện từ khách sạn đến địa điểm thi đấu.[224] Hội đồng Phát triển Vùng thủ đô Manila cũng có kế hoạch phân luồng giao thông trong suốt thời gian diễn ra giải đấu.[225][226]
Philippine Arena đã bị tước quyền đăng cai tổ chức vòng cuối cùng do "những lo ngại nghiêm trọng về vấn đề giao thông vận tải". Ngoài ra, khả năng tiếp cận địa điểm ở tỉnh Bulacan gần Vùng đô thị Manila là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết lâu dài. Không giống như hai nhà thi đấu khác ở Khu vực Đại đô thị Manila, các khán giả đến Philippine Arena không thể thông qua các phương tiện giao thông công cộng để đến địa điểm thi đấu.[227][228]
Vấn đề về số lượng khán giả tại Okinawa
[sửa | sửa mã nguồn]Các dãy ghế bị bỏ trống trong trận mở màn của đội tuyển quốc gia Nhật Bản gặp đội tuyển Đức tại Nhà thi đấu Okinawa có sức chứa lên đến 8.500 chỗ ngồi. Các cầu thủ Nhật Bản đã khiếu nại khiến FIBA phải can thiệp. FIBA đã bán lại vé cho các trận đấu ở Okinawa cho khán giả trong các trận đấu tiếp theo, giúp tăng số lượng khán giả đến sân theo dõi, bao gồm tất cả các trận đấu không có sự góp mặt của Nhật Bản.[187]
Ca phẫu thuật của cầu thủ đội tuyển quốc gia Serbia
[sửa | sửa mã nguồn]Boriša Simanić, cầu thủ của đội tuyển quốc gia Serbia đã gặp phải chấn thương kinh hoàng sau khi bị Nuni Omot, cầu thủ của đội tuyển quốc gia Nam Sudan thúc cùi chỏ khi trận đấu chỉ còn hai phút.[229] Simanić đã phải trải qua một cuộc phẫu thuật tại Trung tâm Y tế Makati, Thành phố Makati, Vùng đô thị Manila, Philippines.[230] Tuy nhiên do biến chứng quá nặng, nên anh đã phải trải qua ca phẫu thuật thứ hai để cắt bỏ đi một quả thận. Thậm chí, anh còn phải đi truyền máu.[231]
Bản quyền phát sóng
[sửa | sửa mã nguồn]Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Chiếc cúp đã đi đến Hẻm núi Dashbashi, nơi gần Thành phố Tsalka.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “FIBAバスケットボールワールドカップ2023 予選ラウンド 沖縄開催決定のお知らせ” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội bóng rổ Nhật Bản. 9 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2017. Truy cập 25 tháng 7 năm 2018.
- ^ “Indonesia berpeluang menjadi tuan rumah Piala Dunia FIBA 2023” (bằng tiếng Indonesia). Hiệp hội bóng rổ Indonesia. 11 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2018.
- ^ “Dates set for 2023 World Cup”. ABS-CBN News. 13 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- ^ “President Jokowi Cancels Attendance, FIBA World Cup 2023 Officially Opens Enough Lively”. Waktunya Merevolusi Pemberitaan. 25 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ “What to know about FIBA Basketball World Cup 2023” (bằng tiếng Anh). Aljazeera. 24 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2023. Truy cập 28 tháng 8 năm 2023.
- ^ Satumbaga, Kristel (11 tháng 5 năm 2020). “Dates set for 2023 World Cup”. Manila Bulletin. Bản gốc lưu trữ 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập 12 tháng 5 năm 2020.
- ^ “China crushes Indonesia bid to qualify for FIBA World Cup after 50-point romp”. Rappler (bằng tiếng Anh). 19 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2023. Truy cập 28 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Incredible 38,115 fans inside Philippine Arena set FIBA Basketball World Cup attendance record”. FIBA. 25 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2023. Truy cập 27 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Schroder delivers, Germany win the World Cup”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Overtime drama: Canada win bronze after a Bridges miracle”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Down go the champs: Canada knock out Spain in thriller”. FIBA. 3 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2023. Truy cập 3 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b Henson, Joaquin (22 tháng 3 năm 2016). “MVP mulls bidding for 2023 World Cup”. The Philippine Star. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2016.
- ^ “Leading nations, exciting multiple host candidacies headline bids for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 1 tháng 6 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2017.
- ^ “Состоялась рабочая встреча по Кубку мира 2023 года”. Russian Basketball Federation. 1 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup cometh over”. The Philippine Star. 31 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2023.
- ^ Muthiariny, Dewi Elvia (16 tháng 9 năm 2019). “Indonesia, Philippines, Japan to Host 2023 FIBA World Cup”. Tempo.co. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2019.
- ^ “FIBA Basketball World Cup 2023 co-host Indonesia to battle it out for direct qualification”. FIBA. 3 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021. Truy cập 4 tháng 8 năm 2020.
- ^ “How to Qualify – FIBA Basketball World Cup 2023 Asian Qualifiers”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Indonesia confirmed as host of FIBA Asia Cup 2021”. FIBA. 18 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA Asia Cup 2022 Results: Defeat, Indonesia Fails to Qualify FIBA World Cup 2023”. newsdelivers.com. 18 tháng 7 năm 2022. Bản gốc lưu trữ 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập 18 tháng 7 năm 2022.
- ^ Đặng Lai (19 tháng 7 năm 2022). “Chuyện bi hài: Indonesia đăng cai World Cup nhưng không được tham dự”. Tiền phong. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2023. Truy cập 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Draw results set the stage for FIBA Basketball World Cup 2023 Qualifier games”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2021.
- ^ “Finland first European team to book spot at FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 28 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2022. Truy cập 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Cote d'Ivoire first African team to book spot at FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 29 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2022. Truy cập 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Scrubb, Ejim, Chery push paces as Canada clinch spot in FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 10 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2022. Truy cập 15 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Slovenia lock up ticket for return to World Cup”. FIBA. 14 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2022. Truy cập 15 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Egypt become third African team to qualify for the World Cup”. FIBA. 24 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2023. Truy cập 25 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Lebanon qualify for first World Cup appearance in 13 years”. FIBA. 29 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2022. Truy cập 30 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Latvia thump Greece, book first World Cup ticket”. FIBA. 11 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2022. Truy cập 15 tháng 11 năm 2022.
- ^ “History made as South Sudan outlast Senegal to qualify for the 2023 World Cup”. FIBA. 24 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2023. Truy cập 25 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Georgia make history, book first World Cup ticket”. FIBA. 26 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập 27 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Cape Verde become smallest nation to qualify for a World Cup”. FIBA. 26 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập 27 tháng 2 năm 2023.
- ^ Isaga, JR (22 tháng 2 năm 2022). “South Korea pulls out of FIBA World Cup qualifiers”. Rappler. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2022. Truy cập 10 tháng 6 năm 2022.
- ^ Li, Matthew (28 tháng 2 năm 2022). “REPORT: FIBA rejects Korea's appeal”. Tiebreaker Times. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2022. Truy cập 10 tháng 6 năm 2022.
- ^ “Russian teams, officials are no longer allowed to participate in FIBA competitions until further notice”. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA decisions on Russia and Belarus for upcoming competitions”. FIBA. 18 tháng 5 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Dominican Republic completes comeback, shocks Argentina and qualifies for the World Cup”. FIBA (bằng tiếng Anh). 27 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập 27 tháng 2 năm 2023.
- ^ “FIBA Men's Ranking – 27 February 2023”. FIFA. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2023.
- ^ “FIBA Basketball World Cup 2023 Draw date confirmed”. fiba.basketball. 2 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2022. Truy cập 2 tháng 12 năm 2022.
- ^ “NBA legends coming to town”. PhilStar. 6 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2023. Truy cập 26 tháng 2 năm 2023.
- ^ Henson, Joaquin (29 tháng 4 năm 2023). “FIBA Basketball World Cup 2023 Draw completed in Manila”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập 29 tháng 4 năm 2023.
- ^ a b c “Saweetie, Luis Scola to headline FIBA Basketball World Cup 2023 Draw presented by Wanda, in Manila”. FIBA. 20 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập 22 tháng 4 năm 2023.
- ^ a b c d e f “The FIBA Basketball World Cup 2023 Draw Principles explained”. FIBA. 21 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2023. Truy cập 21 tháng 4 năm 2023.
- ^ Saldajeno, Ivan Stewart (12 tháng 12 năm 2022). “Gilas placed in Pot 1 of FIBA World Cup draw”. Philippine News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ “World Cup 2023 destinations confirmed for USA, Slovenia and Canada”. FIBA. 12 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ “FIBA Basketball World Cup 2023 Draw completed in Manila”. FIBA. 29 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Basketball, FIBA World Cup 2023: Full schedule and how to watch”. olympics.com. 29 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- ^ “16 rosters confirmed for the FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 24 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- ^ Việt Long (23 tháng 8 năm 2023). “Luka Doncic, Jordan Clarkson và danh sách chi tiết cầu thủ NBA góp mặt tại FIBA World Cup 2023”. Web Thể thao.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2023. Truy cập 25 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA Statement on venue change at the FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 28 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
- ^ “FIBA Basketball World Cup 2023 final phase to be played at MOA Arena, Gilas to open campaign at Philippine Arena | SBP”. sbp.ph. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2023.
- ^ Draw Ceremony – FIBA World Cup 2023 Qualifiers (bằng tiếng Anh), Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2021, truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2021
- ^ “Kementerian PUPR Bangun IMS di Kompleks GBK”. Instagram (bằng tiếng Indonesia). Ministry of Public Works and Housing. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.
IMS akan dapat menampung 16.088 penonton
- ^ “Stadium for hosting FIBA World Cup to be named Indonesia Arena”. Antara. 8 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2022.
- ^ Ramos, Gerry (15 tháng 8 năm 2023). “World Cup games in Okinawa will be moved to Manila if this happens”. Sports Interactive Network Philippines (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Manila – Philippine Arena”. 2023 FIBA Basketball World Cup (bằng tiếng Anh). FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Manila – Araneta”. 2023 FIBA Basketball World Cup (bằng tiếng Anh). FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ Cordero, Abac (16 tháng 12 năm 2017). “FIBA World Cup: Venues will be ready in 2023”. The Philippine Star. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2022. Truy cập 18 tháng 12 năm 2017.
- ^ “Manila – Mall of Asia”. 2023 FIBA Basketball World Cup (bằng tiếng Anh). FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ “SM elevates MOA Arena to international standards for FIBA WC”. Tiebreaker Times. 20 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2024. Truy cập 20 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Jakarta – Indonesia ArenA”. 2023 FIBA Basketball World Cup (bằng tiếng Anh). FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Okinawa – Okinawa Arena”. 2023 FIBA Basketball World Cup (bằng tiếng Anh). FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2022. Truy cập 16 tháng 12 năm 2022.
- ^ Henson, Joaquin (18 tháng 8 năm 2023). “All set for World Cup start”. The Philippine Star. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Preparations for PH co-hosting of 2023 Fiba World Cup set to go full blast”. SPIN.ph. 7 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập 7 tháng 2 năm 2019.
- ^ “SBP prepares for 2023 World Cup”. SPIN.ph. 5 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2021. Truy cập 15 tháng 9 năm 2019.
- ^ “MVP retains seat in Fiba central board ahead of World Cup hosting turnover”. SPIN.ph. 15 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập 15 tháng 9 năm 2019.
- ^ “FIBA Executive Committee focus on upcoming Olympic Qualifying Tournaments”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2020. Truy cập 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ “First meeting takes place for the FIBA Basketball World Cup 2023 Board”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập 30 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Jakarta set for new arena ahead of FIBA World Cup”. The Stadium Business. 20 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập 12 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Indonesia to Build New Stadium as FIBA World Cup Co-Host”. Jakarta Globe. 20 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Resmikan Topping Off IMS GBK, Jokowi: Arena Tertutup Terbesar di Indonesia”. Republika.co.id (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập 2 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Jelang Piala Dunia Basket FIBA, Presiden Resmikan Indonesia Arena”. Sekretariat Kabinet Republik Indonesia (bằng tiếng Indonesia). 7 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2023.
- ^ Raya, Mercy (24 tháng 5 năm 2023). “FIBA World Cup 2023: Perbasi dan LOC Dapat Anggaran Rp 135 Miliar”. Detik.com (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập 7 tháng 8 năm 2023.
- ^ “23年バスケW杯 「沖縄らしいもてなしを」大会成功へシンポジウム” (bằng tiếng Nhật). Ryūkyū Shimpō. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2020. Truy cập 22 tháng 10 năm 2020.
- ^ “Marcos forms inter-agency task force for FIBA World Cup 2023”. ABS-CBN News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập 2 tháng 5 năm 2023.
- ^ Atencio, Peter (20 tháng 4 năm 2023). “P800M okayed for PH's FIBA World Cup hosting”. Manila Standard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Public school classes, gov't work in NCR, Bulacan suspended on Aug. 25 for FIBA World Cup opening”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). 16 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập 20 tháng 8 năm 2023.
- ^ “オープニングシリーズ特設サイト – 沖縄アリーナ” (bằng tiếng Nhật). Ryukyu Golden Kings. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập 1 tháng 9 năm 2021.
- ^ Fuertes, Rommel Jr. (23 tháng 6 năm 2023). “Ateneo, Letran headline SBP's Invitational Games in preparation for Fiba World Cup”. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2023. Truy cập 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ “SBP Invitation games featuring eight collegiate squads of NCAA and UAAP”. BusinessWorld. 27 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2023. Truy cập 29 tháng 6 năm 2023.
- ^ “LOC FIBA World Cup 2023 Indonesia Buk Stan Penjualan Tiket di Kota Kasabl” (bằng tiếng Indonesia). Varta DIY. 25 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập 30 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Test Event FIBA World Cup 2023 Digelar di Jakarta, 2–5 Agustus: Ini Detail Harga Tiketnya” (bằng tiếng Indonesia). Bola.com. 27 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2023. Truy cập 29 tháng 7 năm 2023.
- ^ “World Cup Volunteers Program launched in Philippines”. FIBA. 30 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “「FIBAバスケットボールワールドカップ2023」アンバサダー就任のお知らせ”. B.League (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập 2 tháng 5 năm 2023.
- ^ “FIBAバスケットボールワールドカップ2023 沖縄グループステージ ボランティアスタッフ募集に関するお知らせ”. Hiệp hội bóng rổ Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Program Perekrutan Volunteer untuk FIBA World Cup 2023 Sudah Dibuka”. Harian Terbit (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập 25 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Greece to host Serbia, Italy in 32nd Acropolis Tournament”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập 23 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Germany to host Canada, China and New Zealand in Basketball Supercup”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập 23 tháng 3 năm 2023.
- ^ Wang, Yayun (17 tháng 7 năm 2023). “国际男篮邀请赛八月相约河源,伊朗菲律宾黎巴嫩塞内加尔参赛_篮球赛_亚洲_赛事”. Sohu (bằng tiếng Trung). Quảng Đông. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2023.
- ^ Dy, Richard (12 tháng 7 năm 2023). “Gilas to play in pocket tournament in China”. The Manila Times. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2023. Truy cập 17 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Shenzhen set to host World Cup bound teams in FIBA Solidarity Cup”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 7 năm 2023. Truy cập 17 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Le programme de préparation, en France, dévoilé”. Liên đoàn Bóng rổ Pháp (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập 23 tháng 3 năm 2023.
- ^ FFBB (30 tháng 3 năm 2023). “Les billetteries pour les 4 matchs de préparation des Bleus à la @FIBAWC. 2023 sont ouvertes, rendez-vous cet été à Pau, Montpellier et Orléans Pour acheter vos places #TeamFranceBasket #PassionnémentBleu #FIBAWC”. Twitter. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2023.
- ^ “バスケットボール男子日本代表国際強化試合2023東京大会 開催決定のお知らせ”. Hiệp hội Bóng rổ Nhật Bản (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập 30 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Melbourne 'Bout To Boom”. Liên đoàn bóng rổ Úc. Bản gốc lưu trữ 6 tháng 6 năm 2023. Truy cập 19 tháng 5 năm 2023.
- ^ “Spain to host USA, Slovenia in glitzy World Cup warm-up tournament”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ Liên đoàn Bóng rổ Gruzia. “საქართველოს ერონული ნაკრების მსოფლიო ჩემპიონატის მოსამზადებელი ეტაპის გეგმა და თარიღები ცნობილია!”. Instagram (bằng tiếng Gruzia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập 30 tháng 6 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “Road to Manila. L'estate Azzurra 2023: training camp a Folgaria e 7 amichevoli prima del Mondiale”. Liên đoàn bóng rổ Ý (bằng tiếng Ý). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập 23 tháng 3 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “USA to face Germany, Greece in Abu Dhabi warmup for World Cup”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập 23 tháng 3 năm 2023.
- ^ “USA Basketball Announces Agreement with DCT Abu Dhabi”. Liên đoàn bóng rổ Hoa Kỳ. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2023. Truy cập 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Luka Doncic to face Giannis Antetokounmpo twice in friendly games”. BasketNews. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2023. Truy cập 24 tháng 3 năm 2023.
- ^ “Duelo de titanes: Venezuela jugará contra España”. Líder en Deportes. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập 12 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Canada excited about challenges in Group H following World Cup Draw”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2023. Truy cập 3 tháng 5 năm 2023.
- ^ Terrado, Reuben (27 tháng 5 năm 2023). “Gilas Pilipinas to face Finland, Estonia in pocket tournament”. Sports Interactive Network Philippines (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2023.
- ^ “Eesti meeste järelkasvukoondis peab sel nädalal kaks kontrollmängu Tallinnas”. Rahvuskoondis.ee. Hiệp hội Bóng rổ Estonia. 26 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2023. Truy cập 28 tháng 6 năm 2023.
- ^ Leyba, Olmin (30 tháng 6 năm 2023). “Finns hand Gilas another defeat”. PhilStar Global. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2023. Truy cập 1 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Competition system”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “44 Referees selected for FIBA Basketball World Cup”. FIBA. 16 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Amy Bonner on refereeing, adventures with FIBA”. FIBA. 8 tháng 1 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Argentina v Spain boxscore - FIBA Basketball World Cup 2019 - 15 September”. FIBA. 15 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ Terrado, Reuben (29 tháng 6 năm 2023). “FIBA Basketball World Cup hosting update from deputy event director Erika Dy – Interview: 6/28/2023” (video). Youtube (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ Samahang Basketbol ng Pilipinas (14 tháng 7 năm 2023). “Top players, big performers, all at the FIBA Basketball World Cup 2023. Aug 25, Philippine Arena. #LetsMakeHistory” (video). Facebook (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ Alamat (18 tháng 8 năm 2023). “ALAMAT on Twitter:Ready to #WinForAll, Magiliw?”. Twitter. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ Flores, Helen (26 tháng 8 năm 2023). “No ball toss for President Marcos at FIBA World Cup”. The Philippine Star. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Agnez Mo Akan Ramaikan Pembukaan FIBA World Cup 2023” (bằng tiếng Indonesia). detik.com. 23 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2023.
- ^ “President Jokowi Cancels Attendance, FIBA World Cup 2023 Officially Opens Enough Lively”. Waktunya Merevolusi Pemberitaan. 25 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Japan PM Kishida Visits Okinawa; Tosses Jump Ball at Basketball World Cup Game”. The Yomiuri Shimbun (bằng tiếng Anh). 26 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2023.
- ^ “2022 Official Basketball Rules p. 80” (PDF). FIBA.com. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2023. Truy cập 29 tháng 4 năm 2023.
- ^ “Dennis Schroder named FIBA Basketball World Cup 2023 TISSOT MVP”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “World Cup 2023 All-Second Team, Best Coach and Best Defensive Player Awards revealed”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Josh Giddey awarded first Wanda Rising Star Award”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Striking new logo unveiled for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 4 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2021. Truy cập 4 tháng 12 năm 2020.
- ^ “SBP still busy despite lockdown, say officials”. BusinessWorld. 7 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b “Don't Miss A Beat”. VMLY&R. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2023. Truy cập 28 tháng 8 năm 2022.
- ^ fibawc (28 tháng 11 năm 2020). “In 1⃣0⃣0⃣0⃣ days the FIBA Basketball World Cup 2023 will begin! Be ready to scream your lungs out for your National Team!”. Instagram. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 12 năm 2021.
- ^ FIBA (31 tháng 8 năm 2021). “FIBA on Twitter:The road to @FIBAWC 2023 #FIBAWC #WinForAll”. Twitter. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2023.
- ^ Cruz, James Leonard (1 tháng 8 năm 2023). “On the World Stage: Gilas Pilipinas and the Philippines' Historic Hosting of the 2023 FIBA World Cup”. The Game. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Mascot – FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Meet the new FIBA Basketball World Cup Mascot and choose its name!”. FIBA. 9 tháng 6 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Fans have spoken: Meet JIP – the FIBA Basketball World Cup 2023 mascot”. FIBA. 28 tháng 7 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Molten launch exclusive FIBA Basketball World Cup 2023 official game ball”. FIBA. 29 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “It's go-time for the FIBA Basketball World Cup 2023 Trophy Tour presented by J9”. FIBA. 29 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c d “因J9举办的FIBA巡回赛,史密斯奖杯重返中国-J9篮球说” (bằng tiếng Trung). Zhihu. 10 tháng 5 năm 2023.
- ^ a b c d e f “كووورة يكشف برنامج جولة كأس العالم لكرة السلة في لبنان” (bằng tiếng Ả Rập). Kooora.com. 3 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “👉 Earlier this week, we were honoured to host the official FIBA World Cup Trophy in Auckland over two days, as part of the FIBA Trophy Tour! 🏆👀”. Twitter. Basketball New Zealand. 12 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b “FIBA World Cup Trophy arrives in Tehran”. Tehran Times. 12 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup Trophy to travel to Iran”. Tehran Times. 9 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b “Trophy Tour reaches Cote d'Ivoire”. FIBA. 16 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Basket-ball/Trophy tour : Le trophée de la Coupe du monde arrive à Abidjan !” (bằng tiếng Pháp). IvoireMatin.com. 16 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “Mundial de Basquetebol: Troféu da 19ª edição do Mundial de Basquetebol exibido em Mindelo e Praia” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). CrioloSports. 17 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “مؤتمر صحفي لوزير الرياضة ورئيس اتحاد السلة في ختام زيارة كأس العالم لمصر” (bằng tiếng Ả Rập). Liêm đoàn bóng rổ Ai Cập. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b “Naismith Trophy in the Land of Civilizations, Egypt”. FIBA. 21 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA 2023. Troféu do Mundial de Basquetebol chega a Luanda na segunda-feira” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Isto É Notícia. 19 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “A semana foi mesmo inesquecível em São Paulo! Além de todas as homenagens aos bicampeões de 1963, o troféu da Copa do Mundo FIBA 2023 visitou a cidade no Tour da Taça organizado pela J9!”. Twitter (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Liên đoàn bóng rổ Brasil. 30 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “World Cup Trophy to visit South Sudan”. Liên đoàn bóng rổ Nam Sudan. 19 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA pasaulio čempionato taurė svečiuosis Lietuvoje” (bằng tiếng Litva). Liên đoàn Bóng rổ Litva. 1 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Pirmoji #NaismithTrophyTour diena Lietuvoje ✅”. Instagram (bằng tiếng Litva). Liên đoàn bóng rổ Litva. 3 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Antroji #NaismithTrophyTour diena Lietuvoje ✅”. Instagram (bằng tiếng Litva). Liên đoàn bóng rổ Litva. 4 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “Fotografišite se pored trofeja za koji će se boriti najbolji košarkaši planete”. Instagram (bằng tiếng Montenegro). Liên đoàn bóng rổ Montenegro. 3 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ a b c “Pehar "Džejms Nejsmit", namenjen osvajačima Svetskog košarkaškog prvenstva, ponovo stiže u Srbiju, u okviru FIBA Trophy tour-a”. Instagram (bằng tiếng Serbia). Liên đoàn bóng rổ Serbia. 8 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup Trophy Tour Suomessa sunnuntaina” (bằng tiếng Phần Lan). Susijengi.com. 11 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “FIBA World Cup Trophy Tour 2023, dall'11 al 13 giugno la tappa italiana a Milano e Bologna” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn bóng rổ Ý. 11 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ a b c “انطلاق جولة لزيارة مجسم كأس العالم لكرة السلة إلى الأردن” (bằng tiếng Ả Rập). AlMamlaka TV. 16 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “World Cup Trophy Tour in Berlin” (bằng tiếng Đức). Liên đoàn bóng rổ Đức. 26 tháng 6 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “Scenic Georgia hosts Naismith Trophy”. FIBA. 6 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c d “Naismith Trophy arrives in Slovenia”. FIBA. 7 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Naismith Trophy in spectacular Paris”. FIBA. 10 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Trofeju tūre plosās pa Latviju – FIBA Pasaules kauss basketbolā 2023” (bằng tiếng Latvia). Icelo. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c d “Trophy Tour winds through Latvia”. FIBA. 12 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c “Trophy Tour creates a buzz in the land of Boricuas”. FIBA. 11 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Trophy Tour: la Copa del Mundo de Baloncesto visitará Caracas en julio” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Liên đoàn bóng rổ Venezuela. 17 tháng 5 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Trophy Tour runs through Mexico City”. FIBA. 13 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “El Trofeo Naismith visito lugares emblemáticos de RD”. Instagram (bằng tiếng Tây Ban Nha). Liên đoàn bóng rổ Cộng hòa Dominica. 11 tháng 7 năm 2023.
- ^ “Trophy Tour makes a big splash in Las Vegas”. FIBA. 27 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Trophy Tour in the Queen City, Canada”. FIBA. 3 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b c d e f g h i j k l “「FIBAバスケットボールワールドカップ2023トロフィーツアーpresented by J9」 7月15日(土)、北海道の出発式を皮切りに全国を巡るスケジュール決定 北海道、仙台、東京、沖縄ではゴミ拾いイベントやシューティングゲーム等も実施” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội bóng rổ Nhật Bản. 5 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “7/22 (土)・23 (日) 東京で「FIBA バスケットボールワールドカップ2023 トロフィーツアー presented by J9」開催!” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội bóng rổ Nhật Bản. 20 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “「FIBA バスケットボールワールドカップ2023 トロフィーツアー presented by J9」開催~7月27日(木)イオンモール沖縄ライカムで一般向けに展示~!” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội bóng rổ Nhật Bản. 25 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Tur Trofi FIBA World Cup 2023 Sampai di Solo, Jadi Kota Pertama Dengan Antusias Luar Biasa” (bằng tiếng Indonesia). Mettanews.id. 29 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Trophy FIBA World Cup 2023 Singgah di Pulau Dewata” (bằng tiếng Indonesia). Beritaind.com. 31 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup Trophy Tour Mampir ke Surabaya” (bằng tiếng Indonesia). Jawa Pos. 3 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Malaga hosts Trophy Tour stop in Spain” (bằng tiếng Anh). FIBA. 21 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Naismith Trophy goes Down Under, hits all the hot spots in Melbs” (bằng tiếng Anh). FIBA. 22 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Argentina superstar Luis Scola becomes Global Ambassador for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 14 tháng 12 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Spain legend Pau Gasol named Global Ambassador for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 6 tháng 2 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Pau Gasol excited to be in Sydney as Ambassador of the FIBA Women's Basketball World Cup 2022”. FIBA. 21 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “USA basketball icon Carmelo Anthony named Global Ambassador for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập 24 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Indonesia Jadi Tuan Rumah FIBA 2023, Ini Pesan Raffi Ahmad untuk Timnas”. Okezone Celebrity. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ a b “Catriona Gray, Gilas legends named ambassadors for Fiba World Cup”. INQUIRER.net. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2023. Truy cập 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ “B.LEAGUE named Local Ambassador for 2023 World Cup in Japan”. FIBA. 22 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Cinta Laura Jadi Duta Piala Dunia FIBA 2023, Dipilih karena Peduli Lingkungan”. Tempo.co. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2023. Truy cập 23 tháng 7 năm 2023.
- ^ a b Morales, Luisa (10 tháng 9 năm 2023). “Fiba cites high ticket prices as World Cup attendance 'lower than expected'”. Sports Interactive Network Philippines (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “A Win For All as World Cup tickets go on sale in Philippines, Japan and Indonesia”. FIBA. 1 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup tickets go on sale in PH, Japan, Indonesia”. ABS-CBN News. 1 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Saldajeno, Ivan Stewart (13 tháng 7 năm 2023). “Single-game tickets for FIBA WC now available”. Philippine News Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “FIBA World Cup ticket sales open”. Antara News. 11 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ a b “World Cup puts bounce in Japan basketball's step ahead of Olympics”. Kyodo News. 5 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Agcaoili, Lance (10 tháng 9 năm 2023). “Fiba admits 'unsuccessful' ticket pricing for World Cup games in Manila”. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Tissot Countdown Clock unveiled in Japan triggers one year to go celebrations for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2023. Truy cập 28 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Bundaran HI Jadi Saksi Peluncuran Hitung Mundur Tissot Satu Tahun Menuju FIBA Basketball World Cup 2023” (bằng tiếng Indonesia). Media Indonesia. 28 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Ganten expand Global Partnership with FIBA across all FIBA competitions for the next four years”. FIBA. 15 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Global partnership with J9 set to bring fans across the globe closer to the game”. FIBA. 10 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA signs 11-year strategic partnership with iconic basketball brand Nike”. FIBA. 27 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA and Smart Communications gear up for 2023 with global partnership announcement”. FIBA. 17 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA enters global partnership agreement with electronics giant TCL”. FIBA. 3 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA and Tencent announce long-term partnership until 2025”. FIBA. 18 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA and Wanda Group signs landmark strategic partnership agreement”. FIBA. 31 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Asian dairy giant Yili becomes newest FIBA Global Partner”. FIBA. 26 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Indonesia announce Bank Mandiri as local sponsor of FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 11 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Gojek dan FIBA mau bagi-bagi buanyak hadiah buat kamu yang ngaku anak basket banget!”. Instagram (bằng tiếng Indonesian). Gojek. 11 tháng 4 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ a b c d e f g h i j k l Saleh, Tariq (17 tháng 8 năm 2023). “FIBA expects to stage 'most successful' World Cup commercially”. Sportcal. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “「FIBAバスケットボールワールドカップ2023」の沖縄グループステージイベントスポンサーに決定” (bằng tiếng Nhật). Softbank Group. 3 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập 18 tháng 7 năm 2023.
- ^ “SoftBank Corp. joins as sponsor of FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 21 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “New Event Sponsor Nippon Life joins FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 21 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “地元沖縄で開催!「FIBAバスケットボールワールドカップ2023」沖縄グループステージのイベントスポンサーに決定” (bằng tiếng Nhật). Orion Breweries. 10 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập 15 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Orion Breweries, Ltd. named Event Sponsor for FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 15 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “「「FIBA バスケットボール ワールドカップ 2023」沖縄グループステージイベントスポンサーに決定” (bằng tiếng Nhật). IFING Co., Ltd. 10 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập 15 tháng 8 năm 2023.
- ^ “「FIBAバスケットボールワールドカップ2023」スポンサーに就任” (bằng tiếng Nhật). Gakukyusha Co., Ltd. 10 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2023. Truy cập 15 tháng 8 năm 2023.
- ^ “TOYOTA MOTOR PHILIPPINES ALL OUT SUPPORT FOR THE FIBA BASKETBALL WORLD CUP 2023 AND SAMAHANG BASKETBOL NG PILIPINAS”. Liên đoàn bóng rổ Philippines. 23 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “LOC announce Toyota Motor Philippines as partner of FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 23 tháng 1 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ Carandang, Justin Kenneth. “FIBA, SBP seal partnership with San Miguel Corporation for FIBA World Cup”. GMA News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “San Miguel Beer announced as partner of FIBA Basketball World Cup 2023 in Philippines”. FIBA. 27 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “UNILAB announced as partner of FIBA Basketball World Cup 2023 in the Philippines”. FIBA. 18 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Gatorade to fuel FIBA Basketball World Cup 2023”. FIBA. 6 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “ArenaPlus announced as FIBA Basketball World Cup 2023 partner”. FIBA. 17 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA BASKETBALL WORLD CUP 2023 ANNOUNCES PARTNERSHIP WITH ARENA PLUS”. Liên đoàn bóng rổ Philippines. 17 tháng 7 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA highlights players wellness with new partner Hyperice”. FIBA. 18 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “Junckers holding court as FIBA Global Supplier of wooden flooring until 2024”. FIBA. 9 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA and Schelde Sports net four-year partnership agreement”. FIBA. 14 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA team up with TicketSocket for the next five years”. FIBA. 10 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA Appoints Unilumin as Official LEDs Supplier”. Unilumin Group Co. 28 tháng 8 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA appoints IMG licensing as FIBA Basketball World Cup 2023 Global Master Licensee”. FIBA. 12 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2023.
- ^ “FIBA Appoints IMG as FIBA Basketball World Cup 2023's Global Master Licensee”. www.imglicensing.com. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2023. Truy cập 12 tháng 4 năm 2022.
- ^ Gasgonia, Dennis (28 tháng 6 năm 2023). “Metro traffic among concerns ahead of FIBA World Cup hosting”. ABS-CBN News. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Traffic yields during Fiba World – Welcome to Tribune Sports!”. Daily Tribune. 22 tháng 8 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Agcaoili, Lance (28 tháng 6 năm 2023). “Transport still biggest challenge in PH's Fiba World Cup hosting–organizers”. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Flores-Colina, Celest (28 tháng 4 năm 2023). “Fiba World Cup Final phase games moved to MOA Arena from Philippine Arena”. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Payo, Jasmine (28 tháng 4 năm 2023). “Traffic woes: FIBA World Cup playoffs moved to MOA Arena”. Rappler. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Serbian player loses a kidney after getting injured at Basketball World Cup”. AP News (bằng tiếng Anh). Associated Press. 4 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ Ulanday, John Bryan (4 tháng 9 năm 2023). “Serbian player undergoes kidney removal surgery after hit in FIBA World Cup game”. The Philippine Star. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
- ^ “Serbia's Borisa Simanic loses kidney after taking elbow at Basketball World Cup”. The Guardian. 4 tháng 9 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.