Vũ khí bóng đêm: Thành phố Xương
The Mortal Instruments: City of Bones | |
---|---|
Áp phích phim chính thức tại Việt Nam | |
Đạo diễn | Harald Zwart |
Kịch bản | Jessica Postigo Paquette |
Dựa trên | Thành phố Xương của Cassandra Clare |
Sản xuất |
|
Diễn viên | |
Quay phim | Geir Hartly Andreassen |
Dựng phim | Joel Negron |
Âm nhạc | Atli Örvarsson |
Hãng sản xuất |
|
Phát hành | Screen Gems (Mỹ) Entertainment One (Vương quốc Anh) |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 130 phút[2] |
Quốc gia |
|
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Kinh phí | 60 triệu USD[3][4] |
Doanh thu | 90.565.421 USD |
Vũ khí bóng đêm: Thành phố Xương (tựa gốc tiếng Anh: The Mortal Instruments: City of Bones) là một bộ phim khoa học kỳ ảo hành động-phiêu lưu năm 2013 của Đức-Canada phỏng theo cuốn đầu tiên trong loạt tiểu thuyết Vũ khí bóng đêm của nữ nhà văn Cassandra Clare. Câu chuyện được lấy bối cảnh trong một Thành phố New York hiện đại. Được đạo diễn bởi Harald Zwart, phim có sự góp mặt của nhiều ngôi sao quốc tế, trong đó có Lily Collins, Jamie Campbell Bower, Robert Sheehan, Kevin Zegers, Jemima West, Godfrey Gao, Lena Headey, Jonathan Rhys Meyers, Aidan Turner, Kevin Durand, và Jared Harris. Phim được phát hành tại các rạp chiếu vào ngày 21 tháng 8 năm 2013 tại Mỹ và ngày 30 tháng 8 năm 2013 tại Việt Nam.
Clary Fray (Lily Collins), một nữ thiếu niên sống tại New York bắt đầu nhìn thấy những biểu tượng kỳ lạ, điều này khiến cho mẹ cô, Jocelyn Fray (Lena Headey) và người bạn của bà, Luke Garroway (Aidan Turner), lo lắng. Sau khi bước vào một câu lạc bộ đêm cùng với người bạn thân Simon Lewis (Robert Sheehan), Clary nhận ra cô là người duy nhất có thể nhìn thấy được Jace Wayland (Jamie Campbell Bower) đang giết một người đàn ông. Jace xuất hiện và giết chết nó. Jace giải thích rằng anh và Jocelyn đều là Thợ săn Bóng tối (còn được gọi là Nephilim), những chiến binh diệt quỷ và cũng là những người thống trị thế giới ngầm. Clary được thừa hưởng sức mạnh từ mẹ của cô, bao gồm cả khả năng sử dụng chữ rune.
Quý bà Dorothea (C. C. H. Pounder), hàng xóm của nhà Fray và cũng là một phù thủy, kết luận rằng Pangborn và Blackwell đang truy tìm chiếc Chén Thánh, một trong ba Vũ khí bóng đêm được trao cho Thợ săn Bóng tối đầu tiên bởi Thiên thần Raziel. Nó cho phép những người thường trở thành nửa-Thiên thần Thợ săn Bóng tối. Simon, giờ đã có khả năng nhìn thấy Jace, lái xe tới và họ cùng nhau đi đến hiệu sách của Luke. Pangborn và Blackwell đang chất vấn Luke tại đây, họ cho rằng ông không hề quan tâm gì tới Jocelyn và chỉ muốn sở hữu chiếc Chén Thánh. Bộ ba sau đó trốn thoát tới nơi ẩn náu của Thợ săn Bóng tối, Học viện, nơi Clary và Simon gặp hai Thợ săn Bóng tối khác là Alec Lightwood (Kevin Zegers) và Isabelle Lightwood (Jemima West), cùng với người đứng đầu Học viện, Hodge Starkweather (Jared Harris). Ông tiết lộ rằng Valentine Morgenstern (Jonathan Rhys Meyers), một Thợ săn Bóng tối đã phản bội Nephilim, đang tìm kiếm chiếc Chén Thánh để điều khiển toàn bộ Thợ săn Bóng tối và quỷ dữ.
Hodge chỉ cho Jace dẫn Clary tới Thành phố Xương để các Tu huynh Câm có thể thăm dò tâm trí Clary tìm ra vị trí của chiếc Chén Thánh. Các Tu huynh đã khám phá ra một mối liên kết với Magnus Bane (Godfrey Gao), Pháp sư giỏi nhất Brooklyn. Bane nói rằng Jocelyn đã bảo anh niêm phong thế giới Thợ săn Bóng tối khỏi tâm trí Clary. Các Ma cà rồng sau đó đã bắt cóc Simon từ bữa tiệc Magnus tổ chức cho những cư dân của thế giới ngầm. Clary, Jace, Alec và Isabelle lần theo tìm ra nơi ẩn náu của chúng để giải cứu cậu nhưng họ đã bị chúng áp đảo. Những Người sói tới can thiệp và giải cứu họ. Đội quân này được dẫn đầu bởi Luke.
Tại Học viện, Clary và Jace đã có một buổi chiều lãng mạn, kết thúc bằng một nụ hôn. Khi bị Simon đối chất về việc này, Clary bèn đổ lỗi cho hoàn cảnh, tức giận với Jace. Simon tự thú với Clary rằng cậu đã thầm yêu cô từ rất lâu rồi, điều này khiến cô cảm thấy có lỗi vì cô không thể đền đáp lại được tình cảm của cậu.
Clary đưa chiếc Chén Thánh cho Hodge nhưng ông đã phản bội họ bằng cách triệu hồi Valentine Morgenstern và đưa hắn ta chiếc Chén. Valentine cũng tiết lộ hắn là cha ruột của Clary và muốn cô tham gia cùng với hắn. Cô trốn thoát qua một cánh cổng dịch chuyển mang cô tới hiệu sách của Luke. Luke, đã tiết lộ rằng mình là một người sói, thừa nhận Valentine là cha của Clary, và nói thêm cô còn có một người anh trai ruột tên là Jonathan đã bị giết.
Clary và Jace chiến đấu với Valentine, hắn tự nhận cả hai người đều là con đẻ của mình. Cả hai người đều từ chối tham gia cùng với hắn và, tiếp tục trận chiến, Clary đẩy hắn ta qua cánh cổng dịch chuyển sau khi đưa cho hắn một chiếc Chén Thánh giả. Cánh cổng bị phá hủy, và Jocelyn được giải cứu, nhưng vẫn đang trong tình trạng hôn mê ở trong bệnh viện. Clary nói với Simon rằng một ngày nào đó sẽ có người yêu cậu thật lòng. Clary trở về nhà và dùng năng lực mới của mình đề sửa sang lại căn hộ.
Diễn viên
[sửa | sửa mã nguồn]Lily Collins, Jamie Campbell Bower, Robert Sheehan, Kevin Zegers và Godfrey Gao quảng bá cho bộ phim. |
- Lily Collins trong vai Clary Fray
- Hope Fleury trong vai Clary thời trẻ
- Jamie Campbell Bower trong vai Jace Wayland
- Robert Sheehan trong vai Simon Lewis
- Kevin Zegers trong vai Alec Lightwood
- Lena Headey trong vai Jocelyn Fray
- Aidan Turner trong vai Luke Garroway
- Kevin Durand trong vai Emil Pangborn
- Jemima West trong vai Isabelle Lightwood
- Godfrey Gao trong vai Magnus Bane
- C. C. H. Pounder trong vai Quý bà Dorothea
- Jared Harris trong vai Hodge Starkweather
- Jonathan Rhys Meyers trong vai Valentine Morgenstern
- Chris Ratz trong vai Eric
- Robert Maillet trong vai Samuel Blackwell
- Stephen R. Hart trong vai Tu huynh Jeremiah
- Elyas M'Barek trong vai Ma cà rồng Lieutenant
- Chad Connell trong vai Lambert
- Harry Van Gorkum trong vai Alaric / Người sói
Sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Tiền sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Trong khi đi thăm dò ý kiến về bộ phim, nữ tác giả Cassandra Clare gặp khá nhiều khó khăn khi tìm kiếm một xưởng phim có thể sản xuất một bộ phim với nhân vật nữ chính. Nhiều hãng phim yêu cầu cô đổi nhân vật chính thành nhân vật nam, nhưng cô không đồng ý.[5]
Ngày 9 tháng 12 năm 2010, Lily Collins được thông báo sẽ đảm nhiệm vai nữ chính Clary Fray.[6]
Alex Pettyfer ban đầu vốn được mời tham gia vai diễn Jace Wayland, nhưng sau đó anh lại bị bác bỏ.[7] Alexander Ludwig,[8] Ed Speleers và Leebo Freeman cũng đã diễn thử vai này[9] nhưng cuối cùng vai diễn lại thuộc về Jamie Campbell Bower. Xavier Samuel,[10] Nico Tortorella,[11] Max Irons,[12] và Douglas Booth[12] cũng nằm trong diện được cân nhắc.
Bộ phim là đồng sản xuất giữa công ty Đức Constantin Film Produktion GmbH và công ty Canada Don Carmody Productions và Unique Features.[1]
Quay phim
[sửa | sửa mã nguồn]Việc quay phim chính diễn ra từ 20 tháng 8 – 7 tháng 11 năm 2012 tại các địa điểm ở Toronto và Hamilton, Ontario, và Thành phố New York.[13]
Âm nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Nhạc phim
[sửa | sửa mã nguồn]The Mortal Instruments: City of Bones (Original Motion Picture Soundtrack) | |
---|---|
Album soundtrack của Nhiều nghệ sĩ | |
Phát hành | 20 tháng 8 năm 2013 |
Thu âm | 2013 |
Thể loại | Pop, EDM, indie pop, alternative rock |
Thời lượng | 49:53 |
Hãng đĩa | Republic |
Đĩa đơn từ The Mortal Instruments - City of Bones (Original Motion Picture Soundtrack) | |
| |
The Mortal Instruments: City of Bones (Original Motion Picture Soundtrack) được phát hành bởi hãng ghi âm Republic Records tại các cửa hàng băng đĩa cũng như thị trường nhạc số vào ngày 20 tháng 8 năm 2013.[15] Album có sự xuất hiện của nhiều nghệ sĩ, nổi bật trong đó là Demi Lovato, Zedd, Colbie Caillat, AFI phối khí bởi LA Riots, và Jessie J. Phần nhạc phim là sự hợp tác giữa các DJ nhạc trance Myon & Shane 54 cùng với Seven Lions, cũng như một bài hát của Bryan Ellis, sản xuất bởi Brian West. Một số bài hát, bao gồm "Heart by Heart" của Lovato và "When the Darkness Comes" của Caillat, được thu âm riêng cho Thành phố Xương. Zedd "chơi nhạc nền cho một cảnh quan trọng của bộ phim". Hai bài hát đã được phát hành trước, bao gồm "When the Darkness Comes" của Colbie Caillat (phát hành làm đĩa đơn quảng bá trên iTunes vào ngày 10 tháng 7 năm 2013).[16] Còn lại là những bài hát mới.
Album đạt vị trí cao nhất thứ 32 trên bảng xếp hạng US Billboard 200.[17] "Almost is Never Enough", trình bày bởi Ariana Grande và nam ca sĩ Nathan Sykes của ban nhạc The Wanted, ra mắt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại vị trí thứ 84.
STT | Nhan đề | Phổ nhạc | Thời lượng |
---|---|---|---|
1. | "Into the Lair" | Zedd | 1:44 |
2. | "Almost Is Never Enough" (Soundtrack version) | Ariana Grande & Nathan Sykes | 3:30 |
3. | "17 Crimes" (LA Riots remix) | AFI | 4:43 |
4. | "Heart by Heart" | Demi Lovato | 3:43 |
5. | "Bring Me Home" | Youngblood Hawke | 3:02 |
6. | "When the Darkness Comes" | Colbie Caillat | 4:16 |
7. | "Strangers" (hợp tác với Tove Lo) | Seven Lions, Myon & Shane 54 | 6:02 |
8. | "Magnetic" | Jessie J | 3:55 |
9. | "Bear" | Pacific Air | 3:36 |
10. | "All About Us" (hợp tác với Owl City) | He is We | 3:26 |
11. | "Calling from Above" (Edit) | Bassnectar | 1:57 |
12. | "Start a Riot" | Jetta | 4:14 |
13. | "Strange Days" | Bryan Ellis | 5:45 |
Tổng thời lượng: | 49:53 |
"All I Need" của Radiohead là bài hát được sử dụng trong trailer của bộ phim.
Nhạc nền
[sửa | sửa mã nguồn]The Mortal Instruments: City of Bones (Original Motion Picture Score) | |
---|---|
Album soundtrack của Atli Örvarsson | |
Phát hành | 20 tháng 8 năm 2013 |
Thu âm | 2013 |
Thể loại | Nhạc phim |
Thời lượng | 1:03:42 |
Hãng đĩa | Milan Records |
Phần nhạc nền phim chính thức được biên soạn bởi Atli Örvarsson, và được phát hành vào ngày 20 tháng 8 năm 2013 trên cả thị trường băng đĩa nhạc lẫn nhạc số.
STT | Nhan đề | Thời lượng |
---|---|---|
1. | "Clary's Theme" | 3:22 |
2. | "City of Bones" | 3:40 |
3. | "Your Secret is Safe" | 2:52 |
4. | "The Clave's Curse" | 3:18 |
5. | "Pretty Far From Brooklyn" | 2:32 |
6. | "Close the Dome" | 2:54 |
7. | "The Mortal Cup" | 2:56 |
8. | "The Angel Rune" | 4:06 |
9. | "Madame Dorothea" | 3:11 |
10. | "Magnus Bane" | 2:50 |
11. | "Demon Doll" | 2:38 |
12. | "Where's the Cup?" | 3:47 |
13. | "You're a Morgenstern" | 4:02 |
14. | "J.C." | 2:39 |
15. | "She's Not a Mundane" | 2:24 |
16. | "Valentine" | 3:52 |
17. | "Midnight in the Garden" | 2:15 |
18. | "Vampires and Werewolves" | 4:31 |
19. | "Mortal Instruments - The Opening" | 3:31 |
20. | "The Portal" | 2:22 |
Tổng thời lượng: | 1:03:42 |
- When the Darkness Comes
"When the Darkness Comes" | |
---|---|
Đĩa đơn quảng bá của Colbie Caillat | |
Phát hành | 10 tháng 7 năm 2013 |
Thể loại | Piano rock, pop |
Thời lượng | 4:16 |
Hãng đĩa | Republic |
Sáng tác | Colbie Caillat, David Hodges |
Sản xuất | Hodges |
"When the Darkness Comes" là một bài hát được thu âm bởi nữ ca sĩ-người viết bài hát người Mỹ Colbie Caillat. Đây là một bản ballad thuộc thể loại nhạc adult contemporary kết hợp với các yếu tố của piano rock. Bài hát được phát hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2013 bởi Republic Records làm đĩa đơn quảng bá đầu tiên của nhạc phim. "When the Darkness Comes" được ca ngợi bởi những âm thanh "ám ảnh, quyển khí"[18] giúp bắt được những cảm xúc lãng mạn của câu chuyện. "When the Darkness Comes" có chủ đề tăm tối hơn hầu hết các sản phẩm khác của Caillat.
Phát hành
[sửa | sửa mã nguồn]Một đoạn teaser trailer của bộ phim đã được phát hành vào tháng 11 năm 2012, và trailer thứ hai được ra mắt vào tháng 3 năm 2013. Thành phố Xương ban đầu vốn được định ngày công chiếu vào 23 tháng 8 năm 2013, nhưng sau đó lại được đẩy lùi lên sớm hơn hai ngày, vào ngày 21 tháng 8 năm 2013.[19]
Bộ phim ra mắt lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 8 năm 2013, tại Cinerama Dome ở Hollywood.[20][21]
Tiếp thị
[sửa | sửa mã nguồn]Theo tờ Los Angeles Times, công ty Constantin Film đã chi 60 triệu USD để sản xuất bộ phim và thêm 60 triệu USD nữa để tiếp thị.[4] Kulzer, đồng chủ tịch của Constantin, phát biểu "60 triệu USD đã được sử dụng trên toàn thế giới vào các tờ in và quảng cáo...." đồng thời cũng giải thích tầm quan trọng của việc kì vọng vào bộ phim.[22]
Trò chơi
[sửa | sửa mã nguồn]Đi kèm theo bộ phim, Sony Pictures cũng làm việc với nhà phát triển PlayFirst để phát hành một trò chơi vào ngày 15 tháng 8 năm 2013. Trò chơi này có sẵn miễn phí trên Android và iOS, cho phép người chơi đi săn quỷ và các quái vật siêu nhiên giống như ca Thợ săn Bóng tối trong câu chuyện. Trò chơi này cũng bao gồm nhiều tính năng chéo, cho phép người dùng đăng nhập từ Facebook và lưu lại quá trình chơi giữa các thiết bị Android và iOS.[23]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c “Chroniken der Unterwelt - City of Bones”. Filmportal.de (bằng tiếng Đức và English). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2014.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
- ^ “THE MORTAL INSTRUMENTS - CITY OF BONES (12A)”. British Board of Film Classification. ngày 1 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2013.
- ^ Hopewell, John; Lodderhose, Diana (ngày 26 tháng 5 năm 2012). “Cannes buyers bag prime pics”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2013.
- ^ a b Amy Kaufman (ngày 22 tháng 8 năm 2013). “'Butler' likely to be No. 1 again as 'Mortal Instruments' disappoints”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2015.
$60 million to produce the film and another $60 million to market it abroad
Đã định rõ hơn một tham số trong|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong|archivedate=
và|archive-date=
(trợ giúp) - ^ “The Mortal Instruments: City of Bones Interview”. Emertainment Monthly. ngày 2 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2013.
- ^ “For Young Thesps, It's All About Locking Roles Before Holidays”. Deadline. ngày 9 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2013.
- ^ Brodesser-Akner, Claude (ngày 28 tháng 1 năm 2011). “Alex Pettyfer Ditches One Young-Adult Movie Franchise for Another”. Vulture.com. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Alexander Ludwig Alexander Ludwig”. Twitter. ngày 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2012.
- ^ Weinstein, Joshua (ngày 16 tháng 5 năm 2011). “'The Mortal Instruments' Begins Chase for its Jace”. The Wrap. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ Wilkinson, Amy (ngày 28 tháng 6 năm 2011). “Book-To-Movie Adaptations: Our 10 Most Anticipated Casting Announcements”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
- ^ Yamato, Jen (ngày 1 tháng 3 năm 2011). “Nico Tortorella On Scream 4 Set Troubles and Learning to Love Joel Schumacher”. Movieline. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
- ^ a b Ng, Casey. “The Mortal Instruments: City of Bones (Article)”. Influx Magazine. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2013.
- ^ “'The Mortal Instruments: City of Bones' begins filming in Toronto”. On Location Vacations. ngày 20 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Ariana Grande's 'Almost Is Never Enough' Video Features Nathan Sykes”. ngày 19 tháng 8 năm 2013.
- ^ “The Mortal Instruments: City of Bones (Original Motion Picture Soundtrack)”. iTunes. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2013.
- ^ “The Mortal Instruments: City of Bones (Original Motion Picture Soundtrack)”. Ultimate Music. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Atli Örvarsson - Chart History”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Colbie Caillat's new song for 'The Mortal Instruments: City of Bones' soundtrack: Hear it here -- Exclusive”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013.
- ^ “Jonathan Rhys Meyers Heads to The Mortal Instruments: City of Bones”. Coming Soon. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012.
- ^ Stedman, Alex (ngày 13 tháng 8 năm 2013). “Cassandra Clare Brought to Tears on 'Mortal Instruments' Set”. Variety. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2013.
- ^ Saunders, Louise (ngày 13 tháng 8 năm 2013). “Pure and simple! Ashley Greene opts for demure glamour in effortlessly chic cream shift minidress at The Mortal Instruments: City Of Bones premiere”. Mail Online. London: Daily Mail. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong|archivedate=
và|archive-date=
(trợ giúp) - ^ Nicole Sperling (ngày 21 tháng 8 năm 2013). “Building a foundation on 'City of Bones'”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2015. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong|archivedate=
và|archive-date=
(trợ giúp) - ^ Clark, Noelene (ngày 9 tháng 8 năm 2013). “Exclusive: 'Mortal Instruments' game lets players be Shadowhunters”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong
|archiveurl=
và|archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong|archivedate=
và|archive-date=
(trợ giúp)
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vũ khí bóng đêm: Thành phố Xương. |
- Phim năm 2013
- Phim hành động thập niên 2010
- Phim phiêu lưu thập niên 2010
- Phim lãng mạn thập niên 2010
- Phim Mỹ
- Phim hành động Mỹ
- Phim phiêu lưu Mỹ
- Phim phiêu lưu tưởng tượng của Mỹ
- Phim huyền bí Mỹ
- Phim khoa học viễn tưởng Mỹ
- Phim lãng mạn Mỹ
- Phim Canada
- Phim hành động Canada
- Phim phiêu lưu Canada
- Phim huyền bí Canada
- Phim lãng mạn Canada
- Phim khoa học viễn tưởng Canada
- Phim Đức
- Phim hành động Đức
- Phim phiêu lưu Đức
- Phim kỳ ảo Đức
- Phim huyền bí Đức
- Phim lãng mạn Đức
- Phim khoa học viễn tưởng Đức
- Phim do Harald Zwart đạo diễn
- Phim phiêu lưu kỳ ảo
- Phim về thiên thần
- Phim dựa trên tiểu thuyết
- Phim khoa học kỳ ảo
- Phim lấy bối cảnh ở thành phố New York
- Phim quay tại Toronto
- Phim IMAX
- Phim của Screen Gems
- Phim hãng Constantin Film
- Phim của Entertainment One
- Phim võ thuật kỳ ảo
- Phim võ thuật khoa học viễn tưởng
- Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ
- Phim liên quan đến LGBT thập niên 2010
- Phim liên quan đến LGBT của Mỹ
- Phim bom xịt