Bước tới nội dung

USS Tench

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ USS Tench (SS-417))
Tàu ngầm USS Tench (SS-417) sau khi được nâng cấp GUPPY
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Tench (SS-417)
Đặt tên theo cá chép nhớt[1][2]
Đặt hàng 22 tháng 2, 1943[3]
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[4]
Đặt lườn 1 tháng 4, 1944[4]
Hạ thủy 7 tháng 7, 1944[4]
Người đỡ đầuClaudia Alta Johnson
Nhập biên chế 6 tháng 10, 1944[4]
Xuất biên chế tháng 1, 1947[4]
Tái biên chế tháng 10, 1950[4]
Xuất biên chế 8 tháng 5, 1970[4]
Xếp lớp lại AGSS-417, 1 tháng 10, 1969
Xóa đăng bạ 15 tháng 8, 1973[4]
Danh hiệu và phong tặng 3 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán cho Peru để làm nguồn phụ tùng, 16 tháng 9, 1976[4]
Đặc điểm khái quát(Khi hoàn tất)
Lớp tàu lớp Tench[5]
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.570 tấn Anh (1.600 t) (mặt nước) [5]
  • 2.429 tấn Anh (2.468 t) (lặn) [5]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [5]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m) [5]
Mớn nước 17 ft (5,2 m) [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 16.000 hải lý (30.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[6]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ ở tốc độ 2 kn (2,3 mph; 3,7 km/h) khi lặn [6]
  • 75 ngày tuần tra
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m) [6]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 71 thủy thủ [6]
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(Guppy IA)
Trọng tải choán nước
  • 1.830 tấn Anh (1.860 t) (mặt nước)[8]
  • 2.440 tấn Anh (2.480 t) (lặn)[8]
Chiều dài 307 ft 7 in (93,75 m)[9]
Sườn ngang 27 ft 4 in (8,33 m)[9]
Mớn nước 17 ft (5,2 m)[9]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • mặt nước:
    • 17,3 hải lý trên giờ (32,0 km/h) tối đa
    • 12,5 hải lý trên giờ (23,2 km/h) đường trường
  • ngầm:
    • 15,0 hải lý trên giờ (27,8 km/h) trong ½ giờ
    • 7,5 hải lý trên giờ (13,9 km/h) với ống hơi
    • 3,0 hải lý trên giờ (5,6 km/h) đường trường [8]
Tầm xa 17.000 hải lý (31.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h)[9]
Tầm hoạt động 36 giờ ở tốc độ 3 kn (3,5 mph; 5,6 km/h) khi lặn [9]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 10 sĩ quan,
  • 5 hạ sĩ quan,
  • 64-69 thủy thủ
Vũ khí
  • 10 × ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm)
    • 6 trước mũi, 4 phía đuôi
    • 28 quả ngư lôi [9]
  • mọi khẩu pháo được tháo dỡ[8]

USS Tench (SS-417/AGSS-417) là một tàu ngầm, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó, được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá chép nhớt.[1][2] Nhập biên chế năm 1944, nó đã phục vụ trong giai đoạn sau cùng của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra và đánh chìm được bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 5.069 GRT.[10] Sau khi xung đột chấm dứt, nó xuất biên chế cho đến năm 1950, rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu cuối cùng bị bán cho Peru vào năm 1976 để tháo dỡ làm nguồn phụ tùng. Tench được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp tàu ngầm Tench là sự cải tiến tiếp theo của các lớp tàu ngầm hạm đội Balao Gato, vốn đã chứng minh thành công trong hoạt động chống Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Lớp tàu này, tích lũy những kinh nghiệm trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, là lớp tàu ngầm cuối cùng được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh.[11]

Những chiếc lớp Tench có chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m), mạn tàu rộng 27 ft 4 in (8,33 m) và mớn nước tối đa 17 ft (5,2 m), có trọng lượng choán nước 1.570 tấn Anh (1.600 t) khi nổi và 2.414 tấn Anh (2.453 t) khi lặn. Chúng trang bị bốn động cơ diesel Fairbanks-Morse 38D8-⅛ 10-xy lanh chuyển động đối xứng, dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho hai động cơ điện, đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) cho phép di chuyển với tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) khi nổi. Khi hoạt động ngầm dưới nước, chúng được cung cấp điện từ hai dàn ắc-quy Sargo 126-cell để vận hành hai động cơ điện General Electric lõi kép tốc độ chậm, có công suất 2.740 shp (2.040 kW) và đạt tốc độ tối đa 8,75 kn (16,21 km/h). Tầm xa hoạt động là 16.000 hải lý (30.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 kn (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày; tuy nhiên khả năng hoạt động ngầm bị giới hạn bởi dung lượng điện ắc-quy, sẽ cạn trong 48 giờ khi di chuyển với tốc độ 2 kn (3,7 km/h). Chiếc tàu ngầm mang theo tiếp liệu đủ cho mười sĩ quan và 71 thủy thủ trong 75 ngày.[5][12]

Lớp Tench được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía đuôi tàu, và mang theo tổng cộng 28 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 5 inch/25 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7][6]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tench được đặt hàng vào ngày 22 tháng 2, 1943[3] và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth Kittery, Maine vào ngày 1 tháng 4, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 7, 1944, được đỡ đầu bởi bà Claudia Alta Johnson, phu nhân dân biểu Lyndon Baines Johnson,[Ghi chú 1] và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 10, 1944[1][2][3] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân William B. "Barney" Sieglaff.[13][Ghi chú 2]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Thế Chiến II

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện ngoài khơi New London, Connecticut, Tench lên đường vào ngày 20 tháng 12, 1944 để đi sang khu vực Thái Bình Dương. Sau một giai đoạn huấn luyện tại Trường Sonar Hải quân ở Key West, Florida và tại vùng kênh đào Panama, chiếc tàu ngầm đi đến Trân Châu Cảng vào cuối tháng 1, 1945, và tiếp tục hhuấn luyện tại vùng biển ngoài khơi Oahu.[1][3]

Chuyến tuần tra thứ nhất

[sửa | sửa mã nguồn]

Tench khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 2 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, và có chặng dừng tại Saipan để tiếp thêm nhiên liệu. Nó hoạt động phối hợp trong thành phần một bầy sói vốn còn các tàu ngầm Sea Devil (SS-400), Balao (SS-285)Grouper (SS-214). Bầy sói rời Saipan vào ngày 27 tháng 2 để hướng sang khu vực tuần tra được chỉ định trong biển Hoa Đông về phía Tây Nam Kyūshū và mở rộng lên phía Bắc đến tận Hoàng Hải. Trong đêm 6-7 tháng 3, Tench băng qua eo biển Colnett về phía Nam Yakushima để tiến vào biển Hoa Đông. Bốn chiếc tàu ngầm thuộc bầy sói luân phiên các nhiệm vụ tuần tra, quan trắc thời tiết, trinh sát hình ảnh cũng như tìm kiếm và giải cứu những phi công bị bắn rơi.[1][3]

Vào ngày 18 tháng 3, Tench được lệnh làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu ngoài khơi bờ biển phía Tây đảo Kyūshū khi các tàu sân bay thuộc Đệ Ngũ hạm đội tiến hành không kích Nagasaki. Lúc giữa trưa, nó được một máy bay báo cáo về một vùng biển có phẩm màu (dùng để đánh dấu nơi phi công bị bắn rơi) tại một vịnh dọc bờ biển Kyūshū gần thị trấn Akune, Kagoshima. Dưới sự bảo vệ của máy bay tiêm kích F6F Hellcat, chiếc tàu ngầm thận trọng tiến vào vùng biển nông của vịnh. Ngay sau khi xác minh dấu hiệu trên chỉ là sự phản chiếu ánh sáng từ một bãi đá ngầm, Tench bị bất ngờ bởi một tốp lớn máy bay tiếp cận từ phía đuôi trong khi bản thân không thể lặn ẩn nấp tại vùng nước nông. Tốp máy bay này thực ra xuất phát từ tàu sân bay của Đệ Ngũ hạm đội và trên đường quay trở về sau cuộc ném bom, và chiếc tàu ngầm có dịp chứng kiến cuộc không kích xuống Akune, nhắm vào một cầu đường sắt, kho chứa nhiên liệu và một nhà máy.[1][3]

Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 8, 1973.[1][2][3] Chiếc tàu ngầm sau đó được bán cho Peru vào ngày 16 tháng 9, 1976[Ghi chú 3] để sử dụng làm nguồn phụ tùng.[2]

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tench được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm bốn tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 5.069 tấn.[10]

Bronze star
Bronze star
Bronze star
Dãi băng Hoạt động Tác chiến Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 3 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lyndon Baines Johnson sau này chính là Tổng thống thứ 36 của Hoa Kỳ.
  2. ^ Sieglaff, là sĩ quan trực trên tàu ngầm Tautog lúc diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, đã tiêu diệt được máy bay Nhật Bản đầu tiên bởi một tàu ngầm Hoa Kỳ. Blair (1975), tr. 99
  3. ^ Hoặc vào ngày 7 tháng 9 năm 1976, nếu căn cứ theo nguồn Uboat.net

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h Naval Historical Center. Tench (SS-417). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e f Yarnall, Paul R. “Tench (SS-417) (AGSS-417)”. NavSource.org. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g Helgason, Guðmundur. “Tench (SS-417)”. uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h i Friedman 1995, tr. 285-304
  5. ^ a b c d e f g h i j k l Bauer & Roberts 1991, tr. 280–282
  6. ^ a b c d e f g h Friedman 1995, tr. 305-311
  7. ^ a b c d e f Lenton (1973), tr. 101.
  8. ^ a b c d e f Friedman 1994, tr. 11-43
  9. ^ a b c d e f Friedman 1994, tr. 242
  10. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  11. ^ Gardiner & Chesneau, tr. 146–147.
  12. ^ Friedman 1995, tr. 261–263, 305–311.
  13. ^ Blair (1975), tr. 1059.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]