Bước tới nội dung

USS Rabaul (CVE-121)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu sân bay hộ tống USS Rabaul (CVE-121) đang hạ thủy
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Rabaul (CVE-121)
Đặt tên theo Rabaul, New Britain, Papua New Guinea
Xưởng đóng tàu Todd Pacific Shipyards, Tacoma, Washington
Đặt lườn 2 tháng 1 năm 1945
Hạ thủy 14 tháng 6 năm 1945
Người đỡ đầu bà Alice Schade
Trưng dụng 30 tháng 8 năm 1946
Xếp lớp lại
Xóa đăng bạ 1 tháng 9 năm 1971
Số phận Bán để tháo dỡ, 25 tháng 8 năm 1972
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu sân bay hộ tống Commencement Bay
Kiểu tàu Tàu sân bay hộ tống
Trọng tải choán nước
  • 10.900 tấn Anh (11.100 t) (tiêu chuẩn);
  • 24.100 tấn Anh (24.500 t) (đầy tải)[1]
Chiều dài 557 ft (170 m)
Sườn ngang
  • 75 ft (23 m) (mực nước);
  • 105 ft 2 in (32,05 m) (sàn đáp)
Mớn nước 30 ft 8 in (9,35 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số;
  • 2 × trục;
  • công suất 16.000 shp (12.000 kW)
Tốc độ 19 hải lý trên giờ (22 mph; 35 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 1.066 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí
Máy bay mang theo 34 × máy bay

USS Rabaul (CVE-121) là một tàu sân bay hộ tống lớp Commencement Bay được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo thị trấn Rabaul ở phía Tây Bắc đảo New Britain thuộc Papua New Guinea, cảng chiến lược của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II. Chỉ hoàn tất khi Thế Chiến II đã kết thúc, con tàu được nghiệm thu nhưng không bao giờ được đưa ra hoạt động. Đang khi trong thành phần dự bị, nó được xếp lại lớp như một tàu sân bay trực thăng CVHE-121 vào năm 1955, rồi như một tàu vận chuyển máy bay AKV-21 vào năm 1959 trước khi rút đăng bạ năm 1971 và bị bán để tháo dỡ một năm sau đó.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Rabaul được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Todd Pacific ShipyardsTacoma, Washington vào ngày 2 tháng 1 năm 1945. Nó được hạ thủy vào ngày 14 tháng 6 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà Alice Schade, phu nhân Thiếu tướng Hải quân Henry A. Schade, một nhà thiết kế hải quân; được hoàn tất bởi xưởng tàu Commercial Iron Works tại Portland, Oregon, và được bàn giao cho Hải quân Mỹ vào ngày 30 tháng 8 năm 1946.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Rabaul được nghiệm thu, nhưng được đưa về Hạm đội 19 trực thuộc Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương và bị bỏ không tại Tacoma, sẵn sàng hoạt động trở lại trong Chiến tranh Lạnh phòng khi xảy ra chiến tranh với Liên Xô. Đang khi trong thành phần dự bị, nó được xếp lại lớp như một tàu sân bay trực thăng với ký hiệu lườn CVHE-121 vào ngày 12 tháng 6 năm 1955; được điều sang Đội San Diego, Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương vào tháng 6 năm 1958; rồi lại được xếp lại lớp như một tàu vận chuyển máy bay với ký hiệu lườn AKV-21 vào tháng 5 năm 1959.

Rabaul tiếp tục nằm trong thành phần hạm đội dự bị tại San Diego cho đến khi được rút tên khỏi danh sách Đâng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 9 năm 1971. Con tàu được bán cho hãng Nicolai Joffe CorporationBeverly Hills, California vào ngày 25 tháng 8 năm 1972 để tháo dỡ, và được tháo dỡ tại xưởng tháo dỡ ở Richmond, California.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Silverstone 1989

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bài này có các trích dẫn từ nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng.
  • Silverstone, Paul H. (1989). US Warships of World War 2. Naval Institute Press. ISBN 978-0870217739.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]