Bước tới nội dung

USS Mayo (DD-422)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Mayo (DD-422)
Đặt tên theo Henry Thomas Mayo
Xưởng đóng tàu Bethlehem Shipbuilding Corporation, Fore River, Massachusetts
Đặt lườn 16 tháng 5 năm 1938
Hạ thủy 26 tháng 3 năm 1940
Người đỡ đầu bà C. G. Mayo
Nhập biên chế 18 tháng 9 năm 1940
Xuất biên chế 18 tháng 3 năm 1946
Xóa đăng bạ 1 tháng 12 năm 1971
Biệt danh Mighty Mayo, Mayo Maru[1]
Danh hiệu và phong tặng 2 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bán để tháo dỡ, 8 tháng 5 năm 1972
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Benson
Trọng tải choán nước
  • 1.620 tấn Anh (1.650 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.515 tấn Anh (2.555 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 341 ft (103,9 m) (mực nước)
  • 348 ft 2 in (106,12 m) (chung)
Sườn ngang 36 ft 1 in (11,00 m)
Mớn nước
  • 11 ft 9 in (3,58 m) (tiêu chuẩn)
  • 17 ft 9 in (5,41 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 37,5 hải lý trên giờ (69,5 km/h)
  • 33 hải lý trên giờ (61,1 km/h) khi đầy tải
Tầm xa 6.000 nmi (11.110 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 208 (276 trong thời chiến)
Vũ khí

USS Mayo (DD-422) là một tàu khu trục thuộc lớp Benson của Hải quân Hoa Kỳ đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Đô đốc Henry Thomas Mayo (1856-1937), người từng tham gia cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa KỳChiến tranh Thế giới thứ nhất.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Mayo được đặt lườn tại xưởng tàu Fore River Shipyard của hãng Bethlehem Steel Co.Quincy, Massachusetts vào ngày 16 tháng 5 năm 1938. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 3 năm 1940; được đỡ đầu bởi bà C. G. Mayo, con dâu Đô đốc Mayo, và được cho nhập biên chế vào ngày 18 tháng 9 năm 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân C. D. Emory.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy, Mayo tham gia các hoạt động Tuần tra Trung lập mở rộng, và hộ tống cho việc chuyển binh lính Thủy quân Lục chiến đến Iceland vào tháng 7 năm 1941 để bảo vệ hòn đảo chiến lược này. Trong khi Tổng thống Franklin D. RooseveltThủ tướng Anh Quốc Winston Churchill thỏa thuận những điểm cốt yếu của Hiến chương Đại Tây Dương vào đầu tháng 8, chiếc tàu khu trục đã canh phòng cho cuộc hội nghị giữa hai nhà lãnh đạo khi tuần tra ngoài khơi Argentia, Newfoundland.

Việc Hoa Kỳ chính thức tham gia Thế Chiến II đã khiến Mayo mở rộng các hoạt động hộ tống vận tải bên ngoài khu vực Tây Đại Tây Dương, bao gồm hộ tống các đoàn tàu buôn chậm từ Boston, Massachusetts cho đến các đoàn tàu chuyển quân nhanh xuất phát từ New York bắt đầu từ mùa Hè năm 1942. Tàu ngầm U-boat Đức Quốc xã và thời tiết khắc nghiệt tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương không phải là tất cả các mối nguy cơ đe dọa; khi chiếc Wakefield bị tai nạn hỏa hoạn vào ngày 3 tháng 9, chiếc tàu khu trục đã cặp bên mạn và cứu vớt được 247 người sống sót. Tham gia Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên Bắc Phi, nó đã có mặt tại Casablanca, Maroc vào ngày 12 tháng 11, bốn ngày sau cuộc đổ bộ chính, bảo vệ cho việc vận chuyển lực lượng tăng cường. Nó tạm ngưng các chuyến hộ tống vận tải để trải qua một giai đoạn huấn luyện tại Casco Bay, Maine cho đến cuối năm đó.

Cùng với Đội khu trục 7, Mayo gia nhập Đệ Bát hạm đội tại Địa Trung Hải vào tháng 8 năm 1943. Nó đã cung cấp hỏa lực hỗ trợ và phòng không để bảo vệ bãi đổ bộ tại Salerno, Ý vào ngày 8 tháng 9, cũng như tại các bãi đổ bộ ở Anzio từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 1 năm 1944. Lúc 20 giờ 01 phút ngày 24 tháng 1, một vụ nổ bất ngờ đã làm thiệt mạng bảy người và làm bị thương 25 người khác trong số thành viên thủy thủ đoàn, và hầu như làm con tàu bị vỡ làm đôi. Cho dù bị thủng một lỗ lớn ngang mực nước bên mạn phải, con tàu vẫn nổi được và được kéo quay trở về Naples để sửa chữa tạm thời. Đến ngày 3 tháng 3, nó bắt đầu được kéo quay trở về Hoa Kỳ. Được đưa đến Xưởng hải quân New York vào ngày 5 tháng 4, công việc sửa chữa nó mất bốn tháng để hoàn tất.

Mayo thực hiện một chuyến đi đến Trinidad và bốn chuyến đi đến Châu Âu trước khi Đức đầu hàng. Đội khu trục 7 khởi hành từ New York vào ngày 5 tháng 5 năm 1945 để đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương, và gia nhập Đội đặc nhiệm 12.4 tại Trân Châu Cảng. Máy bay của đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh này đã không kích xuống đảo Wake như một phần của cuộc tổng dượt vào ngày 20 tháng 6 trên đường hướng sang phía Tây. Sau khi đi đến Ulithi, chiếc tàu khu trục bắt đầu một loạt các chuyến hộ tống đến Okinawa. Vào ngày 24 tháng 8, nó lên đường hộ tống lực lượng chiếm đóng vốn đã đổ bộ lên đảo Honshū vào ngày 2 tháng 9; rồi tiếp tục hộ tống các đoàn tàu chuyển binh lính từ PhilippinesOkinawa trước khi khởi hành từ Yokohama vào ngày 5 tháng 11 để quay trở về San Diego, CaliforniaCharleston, South Carolina, đến nơi vào ngày 7 tháng 12.

Mayo được cho xuất biên chế vào ngày 18 tháng 3 năm 1946 và đưa về lực lượng dự bị tại Orange, Texas. Nó được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 12 năm 1971 và bị bán để tháo dỡ vào ngày 8 tháng 5 năm 1972.

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Mayo được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “USS Mayo DD 422”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]