Bước tới nội dung

USS Clamagore (SS-343)

32°47′19″B 79°54′31″T / 32,78861°B 79,90861°T / 32.78861; -79.90861
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm USS Clamagore (SS-343), không lâu sau khi được nâng cấp GUPPY
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Clamagore
Đặt tên theo một loài trong chi Scarus thuộc họ Cá mó[1][2]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut[3]
Đặt lườn 16 tháng 3, 1944 [3]
Hạ thủy 25 tháng 2, 1945 [3]
Người đỡ đầu cô Mary Jane Jacobs
Nhập biên chế 28 tháng 6, 1945 [3]
Xuất biên chế 12 tháng 6, 1975 [3]
Xóa đăng bạ 27 tháng 6, 1975 [4]
Số phận Tháo dỡ, 2022
Đặc điểm khái quát(ban đầu)
Lớp tàu Balao
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện
Trọng tải choán nước
  • 1.526 tấn Anh (1.550 t) (mặt nước) [4]
  • 2.414 tấn Anh (2.453 t) (lặn)[4]
Chiều dài 311 ft 9 in (95,02 m) [4]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [4]
Mớn nước 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [4]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[7]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[7]
  • 75 ngày (tuần tra)
Độ sâu thử nghiệm 400 ft (120 m)[7]
Thủy thủ đoàn tối đa 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[7]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • radar SD phòng không [8]
  • radar SJ dò tìm mặt biển [8]
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(Guppy II)
Trọng tải choán nước
  • 1.870 tấn Anh (1.900 t) (mặt nước) [10]
  • 2.440 tấn Anh (2.480 t) (lặn) [10]
Chiều dài 307 foot (93,6 m) [11]
Sườn ngang 27 foot 4 inch (8,3 m) [11]
Mớn nước 17 foot (5,2 m) [11]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • Mặt nước:
  • 18 hải lý trên giờ (33,3 km/h) tối đa
  • 13,5 hải lý trên giờ (25,0 km/h) đường trường
  • Lặn:
  • 16 hải lý trên giờ (29,6 km/h) trong ½ giờ
  • 9 hải lý trên giờ (16,7 km/h) với ống hơi
  • 3,5 hải lý trên giờ (6,5 km/h) đường trường [10]
Tầm xa 15.000 hải lý (28.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 11 hải lý trên giờ (20 km/h)[11]
Tầm hoạt động 48 giờ lặn ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h) [11]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 9–10 sĩ quan
  • 5 chuẩn úy
  • 70 thủy thủ [11]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar chủ động WFA
  • sonar thụ động JT
  • hệ thống kiểm soát hỏa lực ngư lôi Mk 106 [11]
Vũ khí
Đặc điểm khái quát(Guppy III)
Trọng tải choán nước
  • 1.975 tấn Anh (2.007 t) (mặt nước) [10]
  • 2.450 tấn Anh (2.490 t) (lặn) [10]
Chiều dài 321 foot (97,8 m) [11]
Tốc độ
  • Mặt nước:
  • 17,2 hải lý trên giờ (31,9 km/h) tối đa
  • 12,2 hải lý trên giờ (22,6 km/h) đường trường
  • Lặn:
  • 14,5 hải lý trên giờ (26,9 km/h) trong ½ giờ
  • 6,2 hải lý trên giờ (11,5 km/h) với ống hơi
  • 3,7 hải lý trên giờ (6,9 km/h) đường trường [10]
Tầm xa 15.900 hải lý (29.400 km) trên mặt nước ở tốc độ 8,5 hải lý trên giờ (15,7 km/h)[11]
Tầm hoạt động 36 giờ lặn ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h) [11]
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 8–10 sĩ quan
  • 5 chuẩn úy
  • 70-80 thủy thủ [11]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • sonar dò tìm chủ động BQS-4
  • sonar dò tìm thụ động BQR-2B
  • sonar tấn công thụ động BQG-4 [11]
USS Clamagore (Submarine)
Vị tríPatriot's Point, Mt. Pleasant, South Carolina
Tọa độ32°47′19″B 79°54′31″T / 32,78861°B 79,90861°T / 32.78861; -79.90861
Xây/Thành lập1963
Kiến trúc sưElectric Boat Works
Số NRHP #89001229
Những ngày quan trọng
Đưa vào NRHP29 tháng 6, 1989[12]
Công nhận NHL29 tháng 6, 1989[13]

USS Clamagore (SS-343) là một tàu ngầm lớp Balao được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong chi Scarus thuộc họ Cá mó.[1][2] Hoàn tất quá trễ để có thể tham gia Thế Chiến II, nó lần lượt được nâng cấp trong khuôn khổ các Dự án GUPPY IIGUPPY III để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1975. Con tàu được giữ lại như một tàu bảo tàng tại Patriot's Point thuộc ngoại vi Charleston, South Carolina, là kiểu mẫu tàu ngầm GUPPY III duy nhất còn tồn tại, và được công nhận là một Danh lam Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ từ năm 1988.[14] Tuy nhiên tình trạng vật chất kém của con tàu cộng với việc thiếu kinh phí bảo trì đã đưa đến quyết định tháo dỡ con tàu vào năm 2022.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[15] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][16] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]

Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[17][18]

Clamagore được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 16 tháng 3, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 2, 1945, được đỡ đầu bởi cô Mary Jane Jacobs, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 28 tháng 6, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân S.C. Loomis, Jr.[1][2][19]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

1945 - 1975

[sửa | sửa mã nguồn]

Clamagore thoạt tiên được điều đến Key West, Florida, đến nơi vào ngày 5 tháng 9, 1945, và hoạt động cùng với các đơn vị khác cũng như với Trường Sonar Hạm đội. Nó từng thực hiện những chuyến đi đến Cubaquần đảo Virgin cho đến ngày 5 tháng 12, 1947, khi nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia để được hiện đại hóa trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY II) và trang bị ống hơi, giúp cải thiện đáng kể tốc độ lặn dưới nước và tầm xa hoạt động.[1]

Hoàn tất việc nâng cấp, Clamagore quay trở lại Key West vào ngày 6 tháng 8, 1948, và tiếp nối các hoạt động tại chỗ và tại khu vực biển Caribe trong suốt tám năm tiếp theo. Chiếc tàu ngầm cũng từng được phái sang hoạt động cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải từ ngày 3 tháng 2 đến ngày 16 tháng 4, 1953.[1]

Clamagore đã viếng thăm New London, ConnecticutNewport, Rhode Island vào đầu năm 1957 trước khi quay trở về Key West vào ngày 13 tháng 3. Từ ngày 23 tháng 9 đến ngày 7 tháng 12, nó tham gia cuộc tập trận của Khối tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương, và trong dịp này đã viếng thăm Portsmouth, Anh và Argentia, Newfoundland. Nó đi đến cảng nhà mới Charleston, South Carolina vào ngày 29 tháng 6, 1959, và đến ngày 5 tháng 4, 1960 đã lên đường cho một lượt phục vụ khác cùng Đệ Lục hạm đội tại Địa Trung Hải, kéo dài cho đến tháng 7. Sau khi quay trở về Charleston, nó tiếp tục các hoạt động thường lệ tại vùng bờ Đông Hoa Kỳ.[1]

Đến năm 1962, Clamagore trở thành một trong chín tàu ngầm tiếp tục được hiện đại hóa sâu rộng trong khuôn khổ Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY III).[20] Để đủ chỗ cho các thiết bị điện tử và phòng bản đồ, thân tàu được kéo dài thêm một đoạn 15 ft (4,6 m) phía trước phòng điều khiển, cấu trúc thượng tầng bằng nhựa, và được bổ sung hệ thống sonar đo xa thụ động BQG-4 PUFF (Passive Underwater Fire Control Feasibility System: Hệ thống Điều khiển hỏa lực thụ động dưới nước khả thi), bao gồm ba cảm biến dạng vây cá mập.[10] Con tàu hoàn tất việc nâng cấp GUPPY III vào tháng 2, 1963, và được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 2 đặt căn cứ tại Groton, Connecticut.

Tàu bảo tàng

[sửa | sửa mã nguồn]

Clamagore được cho xuất biên chế vào ngày 12 tháng 6, 1975 và rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 27 tháng 6, 1975.[3][4] Con tàu được trao tặng để làm một tàu bảo tàng vào ngày 6 tháng 8, 1979.

Clamagore đi đến Bảo tàng Hải quân và Hàng hải Patriot's Point tại Charleston, South Carolina vào tháng 5, 1981,[21] nơi nó neo đậu như một tàu bảo tàng bên cạnh tàu sân bay Yorktown (CV-10)tàu khu trục Laffey (DD-724). Clamagore được liệt kê trong Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ và được công nhận là một Danh lam Lịch sử Quốc gia vào ngày 29 tháng 6, 1989.[13][12][14] Đến lúc này, nó là chiếc tàu ngầm GUPPY III duy nhất còn lại tại Hoa Kỳ, tiêu biểu cho việc Hải quân Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng tàu ngầm chạy diesel-điện trong hai thập niên đầu sau Thế Chiến II, là lực lượng tàu ngầm nòng cốt cho đến giữa thập niên 1960.[22]

Tháo dỡ

[sửa | sửa mã nguồn]

Do thân tàu Clamagore bị hư hỏng nghiêm trọng, trong nhiều dịp Bảo tàng Patriot's Point đã nhiều lần tìm biện pháp bảo tồn con tàu.[23] Vào ngày 10 tháng 1, 2017, hạt Palm Beach thông qua một ngân quỹ để đánh chìm con tàu như một dải san hô nhân tạo;[24] nhưng đến ngày 16 tháng 4, 2019, một nhóm cựu chiến binh tàu ngầm đã kiện tiểu bang South Carolina nhằm cứu con tàu.[25] Đến đầu năm 2020, bảo tàng có kế hoạch đánh chìm tại dải đá ngầm Vermilion trước mùa bão 2021;[23] rồi sang năm tiếp theo bảo tàng thông báo kế hoạch tháo dỡ chiếc tàu ngầm vì không thể hỗ trợ chi phí bảo tồn nó.[26]

Vào mùa Hè năm 2022, Bảo tàng Patriot's Point bắt đầu quá trình tháo dỡ Clamagore.

Những hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn: Navsource Naval History.[2]
Bronze star
Đơn vị Tuyên dương Anh dũng Hải quân Huân chương Viễn chinh Hải quân Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Huân chương Phục vụ Phòng vệ Quốc gia
với 1 Ngôi sao Chiến trận

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Clamagore (SS-343). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d Yarnall, Paul R. “Clamagore (SS-343)”. NavSource.org. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2022.
  3. ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
  4. ^ a b c d e f g Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
  5. ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 270-280
  6. ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
  7. ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
  8. ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  9. ^ a b Lenton 1973, tr. 79
  10. ^ a b c d e f g h i j k Friedman 1994, tr. 11-43
  11. ^ a b c d e f g h i j k l m Friedman 1994, tr. 242
  12. ^ a b “Hệ thống Thông tin Sổ bộ Quốc gia”. Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ. 23 tháng 1 năm 2007.
  13. ^ a b “CLAMAGORE, USS (Submarine)”. National Historic Landmark summary listing. National Park Service. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2008.
  14. ^ a b Delgado, James P. (28 tháng 12 năm 1988). “National Register of Historic Places Registration: USS Clamagore (SS-343) / Clamagore” (PDF). National Park Service. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2009.
    Delgado, James P. (28 tháng 12 năm 1988). “Accompanying two photos, exterior, from 1960 and 1988” (PDF). National Park Service. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2009.
  15. ^ Friedman 1995, tr. 99–104
  16. ^ Friedman 1995, tr. 208–209
  17. ^ Alden 1979, tr. 48, 97
  18. ^ Blair 2001, tr. 65
  19. ^ Helgason, Guðmundur. “Clamagore (SS-343)”. uboat.net. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2022.
  20. ^ “USS Clamagore (SS-343)”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2006.
  21. ^ “Ships at Patriots Point – Events and History”. Patriots Point Development Authority. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
  22. ^ “U.S.S. Clamagore, Charleston County (Patriot's Point, Mount Pleasant vicinity)”. National Register Properties in South Carolina listing. South Carolina Department of Archives and History. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2008.
  23. ^ a b “WWII submarine to go on 'eternal patrol' off SC coast as part of artificial reef. As of 2022, Clamagore is still docked at Patriots Point”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
  24. ^ Kleinberg, Eliot (10 tháng 1 năm 2017). “Palm Beach County OKs $1 million for sinking sub as artificial reef”. The Palm Beach Post. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2017.
  25. ^ Werner, Ben (19 tháng 4 năm 2019). “Submariners are Suing South Carolina to Save Cold War-Era Attack Boat”. USNI News. U.S. Naval Institute. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2019.
  26. ^ “Patriots Point to dismantle USS Clagamore”. 18 tháng 3 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2022.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]