Bước tới nội dung

Trần thức Thái cực quyền

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiêu thức Đơn tiên trong Thái cực quyền của họ Trần

Trần thức Thái cực quyền, Trần gia Thái cực quyền, hay Trần thị Thái cực quyền (陳式、陳家 hoặc 陳氏 太極拳) là tên gọi của trường phái Thái cực quyền của dòng họ Trần, được quyền sư nổi tiếng Trung Hoa, Trần Vương Đình (Chen Wang Ting, 陈王廷), sáng tạo vào giai đoạn Minh mạt Thanh sơ và được các thế hệ con cháu trong dòng họ trau truốt, tinh luyện qua nhiều thế hệ.

Nếu không tính đến huyền thoại về những tổ sư khai sáng Thái cực quyền, Trương Tam PhongVương Tông Nhạc, mà giới võ học chưa thể bạch hóa, Thái cực quyền của dòng họ Trần khởi nguồn từ Trần Vương Đình được công nhận là nguồn cội của nhiều dòng phái Thái cực quyền về sau. Trong số đó đáng chú ý là Dương thức Thái cực quyền do Dương Lộ Thiền (1799-1812); và Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812-1880) sáng lập. Hai ông học Trần thức Thái cực quyền từ cháu thứ 14 của dòng họ Trần, trong đó Dương Lộ Thiền thụ truyền từ Trần Trường Hưng (陳長興, 1771-1853) và Võ Vũ Tương sở đắc lý pháp Trần gia Thái cực quyền từ Trần Thanh Bình (陳清苹, 1795-1868).

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối thế kỷ 14, một người nông dân tên Trần Bốc (Chen Bu hoặc Chen Pu 陳仆) tới cư ngụ tại một làng nhỏ thuộc huyện Ôn (Wenxian), tỉnh Hà Nam, phía Bắc sông Hoàng Hà (Huanghe). Ông là người tỉnh Sơn Tây (Shanxi), và là tổ của gia đình họ Trần. Làng mà ông tới cư ngụ về sau được gọi là Trần Gia Câu (Chenjia Gou, 陳家沟)[1]. Theo một số người trong gia tộc họ Trần, môn võ (Thái cực quyền) khởi nguyên từ tổ phụ Trần Bốc, tuy nhiên nhiều học giả đã bác bỏ điều này và thừa nhận chính Trần Vương Đình (Chen Wangting, 1600-1680) mới là khởi nguyên của Thái cực quyền dòng họ Trần.

Trần Vương Đình sống vào cuối đời Minh đầu nhà Thanh, là người đất Ôn, tỉnh Hà Nam, đời thứ 9 của dòng họ Trần ở Trần Gia Câu. Trong thời nhà Minh, Trần Vương Đình từng giữ chức vụ tuần phủ, án sát Sơn Đông, Trực Lệ, tỉnh Hà Bắc và là Liêu Đông kiêm chức giám quân, chống nhau với giặc Thanh hơn 4 năm. Quyển Trần thị Gia phổ (陳家氏譜 Chenshi Jia Pu) có ghi: Ông sinh vào cuối triều đại nhà Minh đầu triều đại nhà Thanh, danh tiếng tại tỉnh Sơn Đông, đánh đuổi quân cướp, và là người đầu tiên đem vào gia đình ông môn quyền, đaothương, ông thường sử dụng cây đại đao[1].

Năm 1644 khi nhà Minh mất, Trần Vương Đình lui về ẩn cư. Từ đây ông tập trung nghiên cứu, tổng hợp các môn võ thuật đương thời[2], lấy 29 thức trong số 32 thức của Quyền kinh của Thích Kế Quang, để cải tạo thành một bài riêng truyền lại cho con cháu. Thái cực quyền được Trần Vương Đình truyền lại cho con cháu trong họ, đời đời luyện tập và không ngừng cải tiến tinh luyện. Cuốn Trần thị gia phổ cũng cho biết Trần Vương Đình tuy đem vào dòng họ 3 môn quyền, đao, thương, nhưng các đời về sau chỉ còn truyền lại quyền mà thôi.

Hệ thống công phu

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước thế kỷ 14, theo Trần thị gia phổ hệ thống võ học của dòng họ Trần bao gồm 7 quyền lộ: Đầu sáo quyền (Toutaoquan) còn được gọi Thập tam thức (Shisan Shi); Nhị sáo quyền (Ertaoquan); Tam sáo quyền (Santaoquan) còn được gọi là Đại tứ sáo trùy (Dasitaochui); Tứ sáo quyền (Sitaoquan) còn được gọi là Hồng quyền (Hongquan) hay Thái tổ hạ nam đường (Tauzu Xia Nantang); Ngũ sáo quyền (Wutao quan); Trường quyền (Chang quan) còn được gọi là Nhất bách linh bát thức (Yibailingba Shi); Pháo trùy (Paochui)[1]. Hệ thống kỹ thuật này còn kiêm các công phu Đoản đả (Duanda); Tán thủ (Sanshou); Kiều thủ (Jishou); Lược thủ (Lueshou); Sử thủ (Shushou), Tam thập lục cổn diệt (Sanshiliu Gunyue); Kim cang thập bát noa pháp (Jingang Shiba Nafa). Ngoài ra là binh khí với Đơn đao (Dandao); Song đao (Shuangdao); Song kiếm (Shuangjian); Song giản (Shangjian), Bát thương (Baqiang); Bát thương đối thích pháp (Baqiang Dui Cifa); Thập tam thương (Shisanqiang); Hoàn hậu Trương Dực Đức tứ thương (Huan Hou Zhang Tesi qiang); Nhị thập tứ thương (Ershisiqiang Lianfa); Bàng la bảng (Panluobang) Xuân thu đao (Chungqiuđao); Bàng la bảng luyện pháp (Panluobang Lianfa); Tuyền phong côn (Xuanfenggun); Đại chiến phác liêm (Dazhan polian)[1]. Trong hệ thống quyền pháp Trần gia nổi lên 2 quyền lộ chính: Trường Quyền vốn xuất xứ từ quyền pháp của Thích Kế Quang dài và phức tạp, và Thập Tam Thức vốn lấy từ Thái cực quyền Phổ của Vương Tông Nhạc. Tuy vậy, Trần gia Thái cực quyền chủ yếu vẫn là Trường Quyền, còn Thập Tam Thức do con cháu họ Trần học lại từ Vương Tông Nhạc về sau[cần dẫn nguồn].

Trần gia Lão giá và Tân giá

[sửa | sửa mã nguồn]

Cho đến thời cận đại, đời thứ 14 của dòng họ Trần vào thế kỷ 19, Thái cực quyền của dòng họ Trần phát sinh thành hai nhánh. Một chi nhánh xuất từ Trần Sở Nhạc (Chen Suoyue) truyền bởi Trần Hữu Bản (Chen Youben 陈有本) và Trần Hữu Hằng (Chen Suoyue). Một chi nhánh khác xuất phát từ Trần Trường Hưng (Chen Changxing hoặc Ch'en Chang-hsing 陳長興, 1771-1853). Trong khi Trần Trường Hưng vẫn đi theo hệ thống gia truyền gọi là Lão giá ("Thái cực quyền Trần gia Lão giá", hay "Thái cực quyền Trần gia Đại giá"), Trần Hữu Bản đã cải tiến Thái cực quyền do tổ phụ để lại thành hệ thống Tân giá (xinjia 新架) (Thái cực quyền Trần gia Tân giá). Tuy vậy, hệ thống Tân giá Thái cực quyền vẫn dựa chủ yếu trên nền Lão giá. Theo truyền thuyết, ba quyền sư này đã tóm gọn lại quyền giá, từ 7 bài quyền xưa chỉ còn lại 2 bài: Đệ nhất lộ (Diyliu) và Pháo trùy quyền (Paochui). Về sau, Trần Thanh Bình (Chen Qingping hoặc Ch'en Ch'ing-p'ing 陳清苹, 1795-1868) lại sáng tạo thêm các động tác mới và cải tiến quyền thức gọn gàng hơn, hình thành nên Tiểu giá (xiao jia 小架) Thái cực quyền, là bộ thứ 2 trong Tân giá quyền thức của Trần gia[3]. Kỹ pháp do Trần Thanh Bình nhuận sắc và truyền dạy cũng được gọi là Bảo giá hay Triệu Bảo gia Thái cực quyền.

Vào thế kỷ 20, Chi nhánh Trần thức Đại giá khởi nguồn từ Trần Trường Hưng lại chia ra hai chi phái Bảo giá của Trần Chiếu Phi (Chen Zhaopi, 1893-1972) và Tân giá của Trần Phát Khoa (Chen Fake, 1887-1957)[1].

Nguồn cội của các lưu phái Thái cực quyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Trần Trường Hưng (Trần gia Lão giá) có dạy Thái cực quyền ra ngoài nội tộc. Hai học trò được biết nhất là Dương Lộ Thiền (Yang Luchan) và Lý Bá Khôi (Li Bokui) và sau này, Dương Lộ Thiền là người thành lập chi phái Dương thức Thái cực quyền. Từ Dương thức Thái cực quyền, nhờ Ngô Giám Tuyền (1870–1942), cũng đã khai sinh dòng Ngô thức Thái cực quyền.

Từ các đệ tử của Trần Thanh Bình (Trần gia Tiểu giá), đã sinh thành các lưu phái Võ thức Thái cực quyền do Võ Vũ Tương (1812–1880) sáng lập; Hòa gia Thái cực quyền (Hijia Taiji Quan) lập bởi Hòa Triệu Nguyên (HeZhaoyuan, 1810-1890), Tam hợp nhất Thái cực quyền (Sanheyi Taiji Quan) lập bởi Trương Kính Chi (Zhang Jingshi)[1]. Đệ tử của Võ thức Thái cực quyền, Tôn Lộc Đường về sau khai sinh Tôn thức Thái cực quyền.

Yếu lĩnh của Trần gia Thái cực

[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm của Trần thức Thái cực quyền có thể tóm lược trong 8 yếu lĩnh được Trần thị quyền phổ quy định:

  1. Ý khí vận động
  2. Vận động có tính đàn hồi của sự buông lỏng thân chi (phóng trương thân chi).
  3. Vận động xoắn vặn như quấn tơ thuận nghịch (thuận nghịch triền ty)
  4. Thân đứng trung chính, sự vận động trên dưới theo nhau
  5. Eo lưng dẫn đầu, vận động trong ngoài hợp nhau xuyên suốt
  6. Tính liên tục không ngừng, cuồn cuộn không dứt của vận động kình hoàn thành trong một hơi thở
  7. Từ cương đến nhu phối hợp (cương nhu phối triển)
  8. Vận động nhanh chậm xen nhau, từ chậm đến nhanh, từ nhanh đến chậm.

Quyền lộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài quyền thứ nhất, hay "Đệ nhất lộ", có đặc điểm là động tác rõ ràng, đơn giản, nhu nhiều cương ít, lấy tứ chính kình bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) vận dụng làm chính và tứ ngung thủ thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm phụ. Phương pháp dụng lực lấy "triền ty kình" (kình lực xoắn ốc như quấn tơ) làm chính và phát kình làm phụ[4]. Động tác của bài khoan thai, mềm mại, vững chắc và chậm rãi, thích hợp cho dưỡng sinh.

Bài quyền thứ hai, còn gọi là "Pháo chùy quyền", có động tác phức tạp hơn, đòi hỏi sự nhanh nhẹn, gọn gàng, cương nhiều nhu ít, vận kình với thái, liệt, chẩu, kháo (chộp, cắt, chỏ, dựa) làm chính và bằng, lý, tê, án (nâng, kéo, đẩy, đè) làm phụ[4]. Động tác của bài cứng rắn, mau lẹ, có nhiều động tác nhảy nhót né tránh, thích hợp trong thực chiến.

Chiêu thức

[sửa | sửa mã nguồn]

Dưới đây là tên chiêu thức trong 2 bài của Trần gia Thái cực quyền, do quyền sư Trần Phát Khoa (Chén Fākē hoặc Ch'en Fa-k'e 陳發科, 陈发科 1887-1957) và con trai là Trần Chiếu Khuê (Chen Zhaokui 陳照奎, 1928-1981) biểu diễn, phân thế:

TT Tên chiêu thức
Bài Thái cực quyền thứ nhất (Đệ nhất lộ)[5]
TT Tên chiêu thức
Bài Thái cực quyền thứ hai (Pháo chùy quyền)[6]
1 Dự bị thức
Thế chuẩn bị
1 Dự bị thức
Thế chuẩn bị
2 Kim cương đảo đối
Chày giã cứng như kim cương
2 Kim cương đảo đối
Chày giã cứng như kim cương
3 Lãn trác y
Lười mặc áo ngoài
3 Lãn trác y
Lười mặc áo ngoài
4 Lục phong tự bế
Sáu phần ngăn bốn phần chặn
4 Lục phong tự bế
Sáu phần ngăn bốn phần chặn
5 Đơn tiên
Một cây roi
5 Đơn tiên
Một cây roi
6 Kim cương đảo đối 2 6 Ban lan chẩu
Gạt chỏ
7 Bạch hạc lượng xí
Hạc trắng xòe cánh
7 Hộ tâm trùy
Chùy hộ vệ tim
8 Tà hành ảo bộ
Bước nghịch đi xéo
8 Ảo bộ tà hành
Bước nghịch đi xéo
9 Sơ thu
Thu lại lần đầu
9 Sát yêu áp chẩu quyền
Quyền sát vào eo và áp chỏ vào sườn
10 Tiền đường ảo bộ
Bước nghịch lên phía trước mặt
10 Tỉnh lãm trực nhập
Ôm giếng vào thẳng
11 Tà hành ảo bộ 2 11 Phong tảo mai hoa
Gió quét hoa mai
12 Tái thu
Thu lại
12 Kim cương đảo đối
13 Tiền đường ảo bộ 13 Tý thân chùy
Chùy che thân
14 Yểm thủ quăng trùy
Tay che và quăng đánh
14 Phiết thân chùy
Ném cái chùy
15 Kim cương đảo đối 3 15 Trảm thủ
Tay chém
16 Phi thân chùy
Chia thân ra đánh
16 Phiên hoa vũ tụ
Lấy tay áo phất cánh hoa
17 Bối chiết kháo
Đánh bằng vai
17 Yểm thủ quăng trùy
Tay che tay đánh
18 Thanh long xuất thủy
Rồng xanh rời nước
18 Phi bộ ảo loan chẩu
Chỏ loan bước nhảy ngược
19 Song thôi thủ
Hai tay đẩy
19 Vận thủ
Tay vận chuyển
20 Tam hoán chưởng
Ba lần đổi chưởng
20 Cao thám mã
Vỗ đầu ngựa
21 Chẩu để chùy
Chùy dưới trỏ
21 Vận thủ
22 Đảo quyển quăng
Đảo cánh tay
22 Cao thám mã
23 Thối bộ áp chẩu
Ép chỏ lui bước
23 Liên châu pháo
Pháo liên châu
24 Trung bàn
Ở giữa
24 Liên châu pháo
25 Bạch hạc lượng sí 25 Liên châu pháo
26 Tà hành ảo bộ 26 Đảo kỳ lân
Đuổi kỳ lân
27 Thiểm thông bối
Chớp xuyên lưng
27 Bạch xà thổ tín
Rắn trắng nhả độc
28 Yểm thủ quăng chùy 28 Bạch xà thổ tín
29 Lục phong tự bế 29 Bạch xà thổ tín
30 Đơn tiên 30 Hải để phiên hoa
Hoa rơi đáy biển
31 Vận thủ
Tay chuyển vận
31 Yểm thủ quăng trùy
32 Cao thám mã
Vỗ đầu ngựa
32 Chuyển thân lục hợp
Xoay người lục hợp
33 Hữu sát cước
Xoa đá chân phải
33 Tả khỏa tiên pháo
Thế đánh trái bọc cây roi
34 Tả sát cước
Xoa đá chân trái
34 Tả khỏa tiên pháo
35 Đặng nhất căn
Đạp gót thành hình chữ "nhất"
35 Hữu khỏa tiên pháo
Thế đánh phải bọc cây roi
36 Tiền đường ảo bộ 36 Hữu khỏa tiên pháo
37 Kích địa chùy
Chùy đánh xuống đất
37 Thú đầu thế
Thế đầu thú
38 Phiên thân nhị khởi cước
Xoay người đá hai lần
38 Phách giá tử
Chẻ các giá
39 Thú đầu thế
Thế đầu thú
39 Phiên hoa vũ tụ
40 Toàn phong cước
Đá như gió xoáy
40 Yểm thủ quăng chùy
41 Đặng nhất căn 41 Phục hổ
Hổ nằm phục
42 Yểm thủ quăng trùy 42 Mạt mi hồng
Vẽ lông mày hồng
43 Tiểu cầm nã
Thế chụp đánh
43 Hữu hoàng long tam lãm thủy
Rồng vàng 3 lần trông coi nước (phải)
44 Pháo đầu thôi sơn
Quả đấm đẩy núi
44 Tả hoàng long tam lãm thủy
Rồng vàng 3 lần trông coi nước (trái)
45 Tam hoán chưởng 45 Tả đặng nhất căn
Đạp gót hình chữ "nhất" (bên trái)
46 Lục phong tự bế 46 Hữu đặng nhất căn
Đạp gót hình chữ "nhất" (bên phải)
47 Đơn tiên 47 Hải để phiên hoa
48 Tiền chiêu
Chiêu trước
48 Yểm thủ quăng chùy
49 Hậu chiêu
Chiêu sau
49 Tảo đường thoái
Chân quét một vòng
50 Dã mã phân tông
Ngựa hoang lắc bờm
50 Yểm thủ quăng chùy
51 Lục phong tự bế 51 Tả xung
Xông lên (bên trái)
52 Đơn tiên 52 Hữu xung
Xông lên (bên phải)
53 Song chấn cước
Chân chặn hai cái
53 Đảo tháp
Cắm ngược lại
54 Ngọc nữ xuyên thoa
Thiếu nữ đưa thoi
54 Hải để phiên hoa
55 Lãn trác y 55 Yểm thủ quăng chùy
56 Lục phong tự bế 56 Đoạt nhị quăng
Chiếm đoạt hai cánh tay
57 Đơn tiên 57 Đoạt nhị quăng
58 Vận thủ 58 Liên hoàn pháo
Pháo liên hoàn
59 Bãi cước diệt xoa
Đá tạt ngồi xuống
59 Ngọc nữ xuyên thoa
Thiếu nữ đưa thoi
60 Tả hữu kim kê độc lập
Gà vàng đứng một chân trái phải
60 Tứ đầu đương môn pháo
Bốn đầu pháo giữ cửa
61 Đảo quyển quăng 61 Ngọc nữ xuyên thoa
62 Thối bộ áp chẩu 62 Tứ đầu đương môn pháo
63 Trung bàn 63 Phiến thân trùy
64 Bạch hạc lượng sí 64 Ảo loan chẩu
Chỏ loan nghịch
65 Tà hành ảo bộ 65 Thuận loan chẩu
Chỏ loan thuận
66 Thiểm thông bối 66 Xuyên tâm chẩu
Chỏ xuyên tim
67 Yểm thủ quăng chùy 67 Oa lý pháo
Pháo trong hang
68 Lục phong tự bế 68 Tỉnh lãm trực nhập
69 Đơn tiên 69 Phong tảo mai hoa
70 Vận thủ 70 Kim cương đảo đối
71 Cao thám mã 71 Thu thế
Thế thu lại
72 Thập tự bãi liên
Đá tạt lá sen, tay chữ "thập"
73 Chỉ đương chùy
Đấm vào bụng dưới
74 Bạch viên hiến quả
Khỉ trắng dâng trái cây
75 Lục phong tự bế
76 Đơn tiên
77 Tước địa long
Rồng đất nhảy múa
78 Thượng bộ thất tinh
Bước lên bảy ngôi sao
79 Thối bộ khóa hổ
Lui bước cưỡi hổ
80 Chuyển thân song bãi liên
Xoay người hai chân đá tạt lá sen
81 Đương đầu pháo
82 Kim cương đảo đối
83 Thu thế
Thế thu lại

Kỹ thuật thôi thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Là những bài tập nhằm ứng dụng Thái cực quyền trong chiến đấu, kỹ thuật thôi thủ[7] của Trần thức Thái cực quyền thực hiện bộ pháp một tiến một lùi, cũng có thể tiến liên tục hoặc lùi liên tục. Thủ pháp cơ bản là "bằng", "lý", "tê", "án" gọi là tứ chính thủ và thủ pháp nâng cao là "thái", "liệt", "chẩu", "kháo" gọi là tứ ngung thủ, đại lý hay đại kháo[8].

Sau khi thành thục cả tứ chính thủ và tứ ngung thủ, tiến tới bước tán thủ hay còn gọi là loạn thác hoa, tức phương thức thôi thủ không câu nệ bước chân[9].

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f “Gia đình họ Trần và Thái cực quyền”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2008.
  2. ^ Tập 1, "Trần thức Thái cực quyền", trong cuốn Thái cực quyền toàn tập, Nguyễn Anh Vũ biên dịch, võ sư Đỗ Đặng Phong hiệu đính. Nhà xuất bản Đồng Nai, 2000. Trang 12
  3. ^ Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 12
  4. ^ a b Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 13.
  5. ^ Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 88-90
  6. ^ Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 209-211
  7. ^ Là những kỹ thuật dính tay, đẩy tay giữa hai môn đồ nhằm luyện linh giác, cảm ứng với lực nhằm hóa giải đòn thế tấn công của đối thủ và phản đòn, đưa đối thủ vào vị trí bất lợi.
  8. ^ Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 255
  9. ^ Thái cực quyền toàn tập, đã dẫn, trang 256

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]


Ngũ đại danh gia Thái cực quyền

Trần gia | Dương gia | Ngô gia | Võ gia | Tôn gia