Tiết lộ giám sát toàn cầu (1970–2013)
Giám sát toàn cầu đề cập đến việc toàn cầu hóa hoạt động giám sát hàng loạt đối với toàn bộ dân cư liên quốc gia.[1] Sự tồn tại của nó lần đầu tiên được tiết lộ vào những năm 1970 đã khiến các nhà lập pháp cố gắng hạn chế hoạt động gián điệp trong nước của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA). Tuy nhiên, nó đã không nhận được sự chú ý lâu dài của công chúng cho đến khi sự tồn tại của ECHELON được tiết lộ vào những năm 1980 và được xác nhận trong những năm 1990.[2] Vào năm 2013, nó đã thu hút được sự chú ý đáng kể của giới truyền thông trên toàn thế giới do vụ tiết lộ giám sát toàn cầu của Edward Snowden.[3]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Thập niên 1970
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1972, nhà phân tích Perry Fellwock của NSA (dưới bút danh "Winslow Peck") đã giới thiệu với độc giả của tạp chí Ramparts về NSA và Hiệp định UKUSA.[4] Năm 1976, một bài báo trên tạp chí Time Out đã tiết lộ sự tồn tại của GCHQ.[5]
Thập niên 1980–1990
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1982, cuốn sách của James Bamford về NSA, The Puzzle Palace, được xuất bản lần đầu tiên. Cuốn sách thứ hai của Bamford, Body of Secrets: Anatomy of the Ultra-Secret National Security Agency, được xuất bản hai thập kỷ sau đó.
Năm 1988, Margaret Newsham, một nhân viên của Lockheed, tiết lộ mạng lưới ECHELON. Newsham nói với một thành viên của Quốc hội Hoa Kỳ rằng các cuộc điện thoại của Strom Thurmond, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thuộc đảng Cộng hòa, đã bị NSA thu thập. Các nhà điều tra của Quốc hội xác định rằng "việc nhắm mục tiêu vào các nhân vật chính trị của Hoa Kỳ sẽ không xảy ra một cách tình cờ. Mà nó đã được thiết kế theo hệ thống ngay từ đầu."[6]
Vào cuối những năm 1990, ECHELON được cho là có khả năng giám sát tới 90% lưu lượng truy cập internet.[7] Tuy nhiên, theo BBC, vào tháng 5 năm 2001, "Chính phủ Hoa Kỳ vẫn không thừa nhận rằng ECHELON có tồn tại."[7]
Thập niên 2010
[sửa | sửa mã nguồn]Sau Sự kiện 11 tháng 9, William Binney, cùng với các đồng nghiệp J. Kirke Wiebe và Edward Loomis và hợp tác với nhân viên Hạ viện Diane Roark, đã yêu cầu Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ điều tra NSA vì cáo buộc lãng phí "hàng triệu triệu đô la" vào Trailblazer, một hệ thống phân tích dữ liệu được truyền trên các mạng truyền thông như Internet. Binney cũng công khai chỉ trích NSA vì đã theo dõi công dân Hoa Kỳ sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.[8] Binney tuyên bố rằng NSA đã thất bại trong việc phát hiện ra âm mưu 11/9, mặc dù nó đã chặn được một lượng lớn dữ liệu.[9]
Năm 2001, sau Sự kiện 11 tháng 9, MI5 bắt đầu thu thập hàng loạt dữ liệu liên lạc qua điện thoại ở Vương quốc Anh (tức là các số điện thoại nào gọi cho nhau và vào khi nào) và ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ sử dụng Đạo luật Viễn thông 1984 thay vì Đạo luật Quyền hạn Điều tra năm 2000, mà điều này sẽ mang lại sự giám sát và quy định độc lập. Điều này được giữ bí mật cho đến khi được Bộ trưởng Nội vụ công bố vào năm 2015.[10][11][12]
Ngày 16 tháng 12 năm 2005, The New York Times đã đăng một báo cáo với tiêu đề "Bush Lets U.S. Spy on Callers Without Courts" (tạm dịch: Bush cho phép Hoa Kỳ theo dõi Người gọi mà không cần thông qua Tòa án), được đồng viết bởi Eric Lichtblau và nhà báo từng đoạt giải Pulitzer, James Risen. Theo The Times, ngày xuất bản của bài báo đã bị trì hoãn một năm (quá chu kỳ bầu cử tổng thống tiếp theo) vì những lo ngại về an ninh quốc gia.[13] Russ Tice sau đó được tiết lộ là một nguồn công bố chính.
Năm 2006, USA Today cung cấp thêm thông tin chi tiết về hoạt động giám sát nội địa của NSA đối với công dân Hoa Kỳ. Tờ báo đã đưa ra một báo cáo vào ngày 11 tháng 5 năm 2006 nêu chi tiết "cơ sở dữ liệu khổng lồ" của NSA về các bản ghi điện thoại được thu thập từ "hàng chục triệu" công dân Hoa Kỳ. Theo USA Today,những bản ghi điện thoại này được cung cấp bởi một số công ty viễn thông như AT&T, Verizon và BellSouth.[15] Kỹ thuật viên của Mark Klein của AT&T sau đó được tiết lộ là nguồn công bố chính, cụ thể là các phòng tại các trung tâm điều khiển mạng trên đường trục Internet đã chặn và ghi lại tất cả lưu lượng truy cập đi qua. Năm 2008, nhà phân tích chứng khoán Babak Pasdar tiết lộ sự tồn tại của cái gọi là "Quantico circuit" mà ông và nhóm của mình đã thiết lập vào năm 2003. Thứ này đã cung cấp cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ một cửa hậu vào mạng của một nhà cung cấp dịch vụ không dây giấu tên, sau này được xác định độc lập là Verizon.[16]
Năm 2007, cựu CEO của Qwest Joseph Nacchio đã cáo buộc trước tòa và cung cấp tài liệu hỗ trợ rằng vào tháng 2 năm 2001 (gần 7 tháng trước sự kiện 11 tháng 9), trong một cuộc họp, NSA đã đề xuất tiến hành theo dõi điện thoại bao trùm. Anh ta coi hoạt động gián điệp là bất hợp pháp và từ chối hợp tác, đồng thời tuyên bố rằng công ty đã bị trừng phạt khi bị từ chối các hợp đồng béo bở.[17]
Những năm 2011–2013
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2011, WikiLeaks công bố chi tiết về ngành công nghiệp giám sát hàng loạt. Theo Julian Assange, "Chúng ta đang ở trong một thế giới mà về mặt lý thuyết không chỉ có thể ghi lại gần như tất cả lưu lượng viễn thông ra khỏi một quốc gia, tất cả các cuộc gọi điện thoại, mà còn có một ngành công nghiệp quốc tế bán thiết bị để làm việc đó."[18]
Tiết lộ từ năm 2013
[sửa | sửa mã nguồn]Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Webb, Maureen (2007). Illusions of Security: Global Surveillance and Democracy in the Post-9/11 World (ấn bản thứ 1.). San Francisco: City Lights Books. ISBN 978-0872864764.
- ^ Andrew Bomford (3 tháng 11 năm 1999). “Echelon spy network revealed”. BBC. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
- ^ Barton Gellman (24 tháng 12 năm 2013). “Edward Snowden, after months of NSA revelations, says his mission's accomplished”. The Washington Post. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013.
Taken together, the revelations have brought to light a global surveillance system that cast off many of its historical restraints after the attacks of Sept. 11, 2001. Secret legal authorities empowered the NSA to sweep in the telephone, Internet and location records of whole populations.
- ^ “U.S. Electronic Espionage: A Memoir”. Ramparts. tháng 8 năm 1972. tr. 35–50.
The SIGINT community was defined by a TOP SECRET treaty signed in 1947. It was called the UKUSA treaty. The National Security Agency signed for the U.S. and became what's called First Party to the Treaty.
- ^ Norton-Taylor, Richard (21 tháng 8 năm 2013). “Surveillance secrecy: the legacy of GCHQ's years under cover”. The Guardian. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2013.
GCHQ's cover was first blown in 1976 by an article, The Eavesdroppers, published by the London magazine, Time Out.
- ^ Campbell, Duncan (12 tháng 8 năm 1988), “Somebody's Listening”, New Statesman, Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2013,
The Congressional officials were first told of the Thurmond interception by a former employee of the Lockheed Space and Missiles Corporation, Margaret Newsham, who now lives in Sunnyvale, California.
- ^ a b “Q&A: What you need to know about Echelon”. BBC. 29 tháng 5 năm 2001. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2013.
- ^ Shorrock, Tim (15 tháng 4 năm 2013). “The Untold Story: Obama's Crackdown on Whistleblowers: The NSA Four reveal how a toxic mix of cronyism and fraud blinded the agency before 9/11”. The Nation.
- ^ Mayer, Jane (23 tháng 5 năm 2011). “The Secret Sharer: Is Thomas Drake an enemy of the state?”. The New Yorker.
- ^ Gordon Corera (5 tháng 11 năm 2015). “How and why MI5 kept phone data spy programme secret”. BBC. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
- ^ Tom Whitehead (4 tháng 11 năm 2015). “MI5 and GCHQ secretly bulk collecting British public's phone and email records for years, Theresa May reveals”. Daily Telegraph. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Here's the little-known legal loophole that permitted mass surveillance in the UK”. The Register. 9 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
- ^ James Risen and Eric Lichtblau (16 tháng 12 năm 2005). “Bush Lets U.S. Spy on Callers Without Courts”. The New York Times. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
- ^ “President Visits Troops at Brooke Army Medical Center”. White House. 1 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2013.
- ^ Leslie Cauley (11 tháng 5 năm 2006). “NSA has massive database of Americans' phone calls”. [USA Today. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.
- ^ Poulsen, Kevin (6 tháng 3 năm 2008). “Whistle-Blower: Feds Have a Backdoor Into Wireless Carrier—Congress Reacts”. Wired. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2013.
- ^ D'Andrade, Hugh (17 tháng 10 năm 2007). “Qwest CEO: NSA Punished Qwest for Refusing to Participate in Illegal Surveillance--Pre-9/11!”. Deeplinks blog. Electronic Frontier Foundation. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
- ^ “Wikileaks disclosure shines light on Big Brother”. CBS News. 1 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2015.