Bước tới nội dung

Thảo luận:Thảm sát Huế Tết Mậu Thân/Casa

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Thêm đề tài
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

(Phần dưới đây, tôi sắp xếp lại theo cấu trúc mới mà Tmct đưa ra và đã được thống nhất. Mong mọi người xem và sửa cùng sao cho bài được khoa học và trung lập).

Tập tin:Communist-Massacre-Hue1-1968.jpg
Ảnh do phía Việt Nam Cộng Hòa cung cấp: Các quan tài của những nạn nhân chưa nhận dạng nằm trong một trường học tại Huế, Tết Mậu Thân, 1968.

Thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân (tiếng Anh:Hue massacre) là tên gọi một sự kiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam về việc tìm thấy một số lượng lớn các ngôi mộ tập thể của những người đã chết tại Huế. Việc phát hiện này bắt đầu được tiến hành sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có một cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân vào Huế và đã rút lui sau 1 tháng chiếm đóng.

Bối cảnh

[sửa mã nguồn]

Sáng sớm ngày 31 tháng 1 1968, trong dịp tết âm lịch, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN - còn được gọi là Việt Cộng) cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam - trong đó có Sài Gòn và Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại quân sự nhưng đối với quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Cộng thì lại là một chiến thắng tâm lý đáng kể. Sau một vài thành công quân sự ban đầu, họ lập tức bị đẩy lui khắp nơi, trừ Huế.

Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 26 ngày giữa MTDTGPMNVN với Quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã xảy ra và kết quả là 40% thành phố bị tàn phá, 116.000 người không có nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và VNCH báo cáo có khoảng 5.000 lính MTDTGPMNVN bị giết bên trong Thành nội Huế, và thêm 3.000 người ở bên ngoài. Cũng trong thời gian này, máy bay Mỹ đã liên tục ném bom làng, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm dân thường thiệt mạng [1].

Tập tin:Communist-Massacre-Hue2-1968.jpg
Ảnh do phía Việt Nam Cộng Hòa cung cấp: Thân nhân họ hàng đứng cạnh các bộ phận thân thể vừa được đào lên từ các mộ tập thể trong dịp Tết Mậu Thân, 1968.

Các con số và sự kiện xung quanh cái gọi là thảm sát tại Huế

[sửa mã nguồn]

Các số liệu về số tử thi tìm thấy ở các địa điểm trong và quanh Huế

[sửa mã nguồn]
  • Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike [2], lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970,
Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng,khoảng 2,000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:
  • Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích
  • Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc
  • Nạn nhân của những vụ giết tập thể:
1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến , 1968
  809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7, 1969
  428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9, 1969
  300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11, 1969
  100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969
1,946 - mất tích (tính đến năm 1970)
Tôi nghĩ con số 5000, 6000 người bị giết là con số cố tình thổi phồng lên quá đáng. Con số 3000 cũng là con số có thể cao hơn thực tế, nếu chỉ kể số thường dân bị giết.
  • Về các con số cụ thể tại các địa điểm khai quật, Gareth Porter [1] viết:
...tại địa điểm trường trung học Gia Hội, báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, đưa ra tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ. Nhưng khi Steward Harris [phóng viên Thời báo Luân Đôn] được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150. Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22), con số này còn làm giảm tổng số hơn nữa.
  • Theo Alje Vennema [4], một bác sỹ làm việc cho một đội y tế Canada tại bệnh viện Quảng Ngãi và đã tình cờ có mặt tại Bệnh viện Huế trong thời gian xảy ra sự kiện Tết Mậu Thân và là người đã tự thẩm tra các địa điểm mộ, nói tổng số tử thi tại bốn địa điểm chính được phát hiện ngay sau Tết là 68, chứ không phải con số 477 như đã được tuyên bố chính thức. Tuy không khẳng định rằng không có ai trong số các tử thi này đã là nạn nhân bị MTGPDT hành quyết, nhưng ông nói rằng các bằng chứng cho thấy hầu hết họ là nạn nhân của các cuộc giao chiến trong vùng chứ không phải do giết chóc chính trị. Trong trường hợp các địa điểm trong khu lăng vua, ông khẳng định rằng hầu hết các tử thi có dấu vết của quân phục. Ông kể rằng đã hỏi chuyện các dân làng gần đó, họ nói rằng trong các ngày 21 đến 26 tháng 2 khu vực trung gian đã bị bom và pháo dữ dội. Và, trái với các tuyên bố của chính phủ rằng nhiều nạn nhân đã bị chôn sống tại đó, Vennema nói rằng tất cả các tử thi đều có các vết thương.
  • Theo báo cáo chính thức của Mỹ, dựa trên thông tin cung cấp bởi Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10, tại địa điểm trường trung học Gia Hội, con số được đưa ra là tổng số 22 mộ tập thể và 200 tử thi, với bình quân 9 tử thi mỗi mộ [5] Cũng khoảng trong thời gian đó, Tiểu đoàn Chiến tranh Chính trị số 10 xuất bản một cuốn sách nhỏ dành cho người đọc Việt Nam, trong đó nói rằng tại trường học có 14 mộ (chứ không phải 22).[6]
  • Phóng viên Steward Harris của tờ Thời báo Luân Đôn cũng có mặt ở Huế để viết về cái được cho là các vụ hành quyết tập thể, đúng vào thời điểm mà theo danh mục chính thức đã có khoảng 400 tử thi được tìm thấy trong khu vực các lăng vua ở phía Nam Huế. Nhưng thay vì đưa anh ta đến địa điểm đó, người sĩ quan chiến tranh chính trị Mỹ lại đưa anh đến một địa điểm mộ tại khu Gia Hội, nơi các tử thi đã được chôn cất lại từ lâu [7]Nhưng khi Steward Harris được đưa đến địa điểm đó, người sĩ quan Việt Nam hộ tống nói với anh ta rằng mỗi ngôi mộ trong số 22 ngôi có từ 3 đến 7 xác, cho ra tổng trong khoảng từ 66 đến 150 [8]

Hoàn cảnh của những địa điểm có mộ

[sửa mã nguồn]
  • Theo Gareth Porter: "'...toàn bộ những vùng tìm thấy các hố chôn là chiến trường trong nhiều tuần của năm 1968. MTGPDT đã tiếp tục giữ nhiều làng nhỏ ngay cả sau khi đã bị đẩy ra khỏi thành phố, và một số làng vẫn nằm trong quyền kiểm soát của họ trong hàng tháng, khi các máy bay ném bom của Mỹ đánh phá họ dữ dội...Làng Phú Mỹ, chỉ cách Huế 3 dặm về phía đông, là một trong các làng đã bị các đơn vị Cộng sản chiếm giữ trong cuộc tổng tấn công, khi nhiều nam giới trẻ nằm trong tuổi quân sự đã được gọi vào Quân Giải Phóng. Theo một cuộc phỏng vấn sau này với một người dân làng, máy bay Mỹ đã liên tục ném bom làng, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và làm dân thường thiệt mạng....Phú Xuân, cách Huế 13 dặm, đã là chiến trường của các cuộc giao tranh dữ dội, trong đó có sự sử dụng mạnh của không lực Mỹ, trong các tuần nối tiếp cuộc Tổng tấn công...."
  • Bộ trưởng Y tế, Trần Lưu Y, sau khi đi thăm các địa điểm chôn cất vào tháng Tư năm 1969, đã thông báo với Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng các tử thi có thể là của những người lính MTGPDT bị chết trong các trận giao tranh [9]
  • Một sỹ quan Mỹ tại Huế đã thừa nhận với một phóng viên tờ Washington Post tại một lễ tang tập thể cho những người chết: "Một số có thể đã đơn giản là bị kẹt lại [trong các cuộc giao tranh]" [10]

Các nguồn thông tin và mức độ kiểm chứng từ các nguồn tin độc lập

[sửa mã nguồn]
  • Theo Gareth Porter : "Trong các tháng Ba và Tư, khi các tử thi được cho là của nạn nhân các cuộc hành quyết của Cộng sản đang được khai quật, chính quyền Sài Gòn không cho phép bất kỳ phóng viên nào xem các địa điểm có mộ hay các tử thi, mặc dù tại thời điểm đó có rất nhiều phóng viên nước ngoài đang có mặt tại Huế."
  • Marc Riboud, người đã vài lần yêu cầu được nhìn thấy những ngôi mộ, đã liên tiếp bị từ chối cấp phép. Khi cuối cùng anh ta dùng trực thăng để đến địa điểm đã thông báo thì phi công từ chối hạ cánh với lí do là vùng đất đó "không an toàn"[11]. Riboud không bao giờ nhìn thấy địa điểm đó, và đến khi danh mục chính thức theo thời gian của các phát hiện và bản đồ tọa độ của các địa điểm có mộ được công bố, không có địa điểm nào giống với cái mà Đại tá Tỉnh trưởng Phạm Văn Khoa miêu tả [12]
  • Trong một cuộc phỏng vấn được sắp xếp bởi chính quyền Sài Gòn với tờ Baltimore Sun cuối năm 1969, người "chiêu hồi" chứng rằng một chỉ huy Cộng sản khu vực, người đã từ là bạn của anh ta, đã nói với anh ta rằng gần 600 người từ Phú Cam và Từ Đàm đã giao cho những người dân tộc miền núi theo Cộng sản để bị họ giết. Lý do anh ta giải thích với tờ Sun, là họ đã là "những tên phản bội cách mạng"[13]. Nhưng cũng chính người đàn ông này, trong một cuộc phỏng vấn với thông tín viên của Tiền Tuyến vài ngày sau đó đã nói rằng cũng chính người chỉ huy khu vực đó đã kể với anh ta rằng 500 "tên ác ôn" đã bị đưa lên núi, không phải để giết mà để cải tạo." [14]

Nạn nhân là ai, nguyên nhân của cái chết là gì

[sửa mã nguồn]

Theo Pike [2]

... có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử.
Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án bất hợp pháp công cộng kéo dài khoảng 5 - 10 phút do giới chức trong quân Bắc việt hay Việt cộng dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án "có tội với nhân dân".
Giai đoạn nhì, khi họ cho rằng họ sẽ giữ được Huế lâu dài, quân Bắc việt / Việt cộng bắt đầu tiến hành công tác giáo dục tư tưởng Mao Trạch Đông cho quần chúng. Những ai bị tình nghi có thái độ chống cách mạng từ từ bị truy lùng trong giai đoạn này. Người theo đạo công giáo, các nhà trí thức, thương gia, và đám người bị tội làm "tay sai Đế quốc" bị chiếu cố để "tạo dựng xã hội mới"
Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Bắc việt / Việt cộng thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng - bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác.

Nhiều tác giả sử dụng báo cáo của Pike, trong khi nhiều người khác thì phủ nhận, cho rằng đây là một chiêu bài tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa để tạo hỗ trợ cho sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam. Trong những thời gian đầu cuộc chiến, nhiều phóng viên chiến trường phải viết phóng sự tuân theo một quy định áp đặt từ chính phủ Hoa Kỳ.

Về sau có khảo cứu của Gareth Porter [1]: về vụ thảm sát Huế. Trong đó, ông chỉ trích những phóng đại tuyên truyền từ Hoa KỳViệt Nam Cộng Hòa. Ông nói Douglas Pike phải chịu trách nhiệm về các thông tin thiếu chính xác. Ông đã nêu ra các nguồn gốc không xác thực của những thông tin về vụ "thảm sát"; sự không rõ ràng trong việc điều tra tại thực địa các ngôi mộ tập thể; những mâu thuẫn trong các báo cáo về số lượng tử thi tìm thấy; những mâu thuẫn với kết quả tìm hiểu của một bác sỹ y khoa làm việc tại Huế lúc đó; một số chi tiết đáng chú ý xung quanh các cuộc khai quật vào năm 1969; những mâu thuẫn giữa bài viết của Douglas Pike với các nguồn thông tin khác; những mâu thuẫn trong các lời khai của "người làm chứng" cho vụ thảm sát;và kết quả của những trận bom của Mỹ tại Huế.

Trong kết luận của bài viết, Gareth Porter đồng ý rằng có những vụ xử tử, giết người tại Huế trong giai đoạn chiếm đóng; tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể về nguyên nhân của những cái chết.

Các bằng chứng có được -- không phải từ nguồn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, mà từ nguồn chính thức của Hoa KỳViệt Nam Cộng Hòa và từ các quan sát viên độc lập -- cho thấy câu chuyện chính thức về một cuộc tàn sát bừa bãi đối với những người được cho là không thích hợp với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là hoàn toàn bịa đặt. Không chỉ số lượng các thân thể được tìm thấy trong và xung quanh Huế đáng nghi vấn, nhưng quan trọng hơn, lý do của các cái chết có vẻ như là bị chuyển từ các trận đánh quân sự sang sự xử tử của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Và các báo cáo chi tiết và "có căn cứ" về sự việc được cho là vụ thảm sát được thực hiện bởi các chính phủ không bị khám xét.

Marilyn B. Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 [15]ghi lại,

Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ ... khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh - với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế...

Ông Bùi Tín kể lại trong quyển "Mây mù thế kỷ"[16]:

Theo tôi việc tàn sát người bị bắt (bao gồm quân nhân, sĩ quan, công chức, đảng viên đảng Dân Chủ, gia đình họ...) trong khi chiến sự diễn ra, nhất là những ngày cuối khi bộ đội cộng sản phải rút quân lên vùng núi phía tây là có thật. Có một số hố chôn tập thể từ 20, 30 đến 60, có khi gần 100 xác chết ở một số nơi trong và ngoài thành phố, như bãi dâu (gần cửa Đông Ba), Tây Lộc, Kim Luông, An Hòa...

Trong quyển "Mặt thật" [3], ông nêu nguyên nhân thứ hai của các cái chết:

Hai nữa là có trường hợp xảy ra những trận ném bom rất lớn của máy bay Mỹ khi quân Mỹ phản công, bom Mỹ giết hại người của cả 2 bên (lính miền Bắc Việt nam cùng với những 'tù binh' họ giải đi). Thi hài lính miền Bắc thì được chôn và đánh dấu, có khi được đưa về gần căn cứ, thi hài 'tù binh' thì vùi nhanh.

Các nguồn khác

[sửa mã nguồn]

Philip W. Manhard, một cố vấn cao cấp Hoa Kỳ tại Huế bị bắt đem ra trại tù binh ở miền Bắc Việt Nam (được thả năm 1974). Ông còn nhớ rõ những vụ bắn giết tại chỗ những người già yếu không đủ sức đi theo cuộc di tản tù nhân.

Cái gọi là đàn áp tôn giáo và tri thức

[sửa mã nguồn]
  • Theo Porter:"...Về những người Công giáo ở Huế, bằng chứng từ cả các tài liệu của Cộng sản và nhân chứng cho thấy chính sách của MTDTGPMN không hướng về phía chống lại Giáo hội Công giáo. Tài liệu "Kế hoạch công kích và khởi nghĩa" bắt được nói đến việc "cô lập (isolate) những tên phản cách mạng lợi dụng Công giáo tại Phú Cam". Tuy nhiên, trong thuật ngữ tiếng Việt của Cộng sản, "cô lập" có nghĩa hành động để cắt đứt các ảnh hưởng của các cá nhân nói trên ra khỏi các sự vụ của cộng đồng. Nó không có nghĩa hành quyết hay thậm chí không nhất thiết có nghĩa bỏ tù, trái với những gì mà các chuyên gia chiến tranh chính trị có thể thuyết phục. Tài liệu chỉ ra rằng chỉ có các mục sư bị phát hiện "che dấu địch" mới là đối tượng trừng phạt, và mức độ trừng phạt cụ thể còn tùy vào mức độ mà chống đối cách mạng của cá nhân đó trong quá khứ..."
  • Tại khu Gia Hội, nơi MTDTGPMN đã kiểm soát trong 26 ngày, một linh mục Công giáo nói với Len Ackland rằng không một ai trong số các giáo dân của ông bị MTDTCPMN hại.[17]

Kết luận của các học giả

[sửa mã nguồn]
  • Porter:"Các bằng chứng hiện có - không phải từ các nguồn của MTGPDTMN mà là từ các tài liệu chính thức của Mỹ và Sài gòn và từ các quan sát viên độc lập - cho thấy rằng câu chuyện chính thức về một vụ tàn sát bừa bãi những người được coi là không đi theo phía MTGPDTMN là một sự ngụy tạo hoàn toàn. Không chỉ số lượng tử thi được phát hiện ở trong và quanh thành phố Huế đang để ngỏ cho các câu hỏi, mà quan trọng hơn, nguyên nhân của cái chết có vẻ như đã bị dịch chuyển từ chính trận đánh sang chuyện tử hình của MTGPDTMN. Và các tường trình "có thẩm quyền" và chi tiết nhất về các vụ được cho là tử hình được kết nối với nhau bởi chính phủ không đứng vững trước thẩm tra..."
  • Pike:"Những gì xảy ra ở Huế làm cho những ai còn là người văn minh trên địa cầu nầy phải dành nhiều phút giây ngừng nghỉ để tư duy về những điều đã được khắc ghi, cùng với những tai họa khủng khiếp khác về những hành động dã man của người đối với người sẽ không bao giờ quên được và trở thành một dấu ấn sâu sắc trong dòng lịch sử nhân loại".

Tham khảo

[sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c D.Gareth Porter. "The 1968 'Hue Massacre'". Tạp chí Indochina Chronicle số 33, 24/6/1974.
  2. ^ a b Douglas Pike, "Vietcong Strategy of Terror" (PDF)
  3. ^ a b Bùi Tín-Mặt thật
  4. ^ Alje Vennema, "The Tragedy of Hue," unpublished manuscript, 1968, pp. 19-23.
  5. ^ "Chronology of Graves Discovered."
  6. ^ Vu Cuong Sat cua Viet Cong tai Co Do Hue (Communist Murder in Hue), Tenth Political Warfare Battalion of ARVN, 1968, p. 1
  7. ^ New York Times, March 28, 1968.
  8. ^ New York Times, March 28, 1968.
  9. ^ Tiền Tuyến, ngày 3-5-1969
  10. ^ Washington Post, May 5, 1969
  11. ^ Le Monde, April 13, 1968.
  12. ^ Chronology of Graves Discovered, Vicinity of Hue (Civilian Deaths in Tet 1968)," obtained from the Office of the Assistant Secretary of Defense for Public Affairs, February 1970.
  13. ^ Baltimore Sun, October 12, 1969.
  14. ^ Tiền Tuyến, 17-10-1969.
  15. ^ Young, Marilyn B., The Vietnam Wars, 1945-1990 (New York: Harper Perennial, 1991)
  16. ^ Bùi Tín–Mây mù thế kỷ-phần 2
  17. ^ Ackland and Porter, op. cit., p. 145.

Liên kết ngoài

[sửa mã nguồn]

(tiếng Việt)

(tiếng Anh)